Báo Thanh Niên - Những tiền đề khai mở!
Sự ra đời của Báo Thanh niên (21/6/1925) đánh dấu bước chuyển quan trọng trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc hướng về đồng bào và cách mạng trong nước. Trước đó, ở phương Tây, chủ yếu trên đất Pháp, Người đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng bằng phương tiện báo chí tiếng Pháp để phơi bày tội ác của chủ nghĩa thực dân.
Đây là quá trình hoạt động bền bỉ, hiệu quả, tích lũy vốn kinh nghiệm, làm điểm tựa, nền tảng để có những thành công lớn sau này. Do vậy, tìm hiểu lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, tất yếu phải gắn liền với những hoạt động báo chí của Nguyễn Ái Quốc trước 1925. Xin khảo sát một vài sự kiện cơ bản liên quan.

Nguyễn Ái Quốc năm 1924.
Trong cuộc đời làm báo nửa thế kỷ, với khoảng 180 bút danh, viết bằng nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Hán, Việt..., Bác viết khoảng hơn 2.000 bài, trực tiếp sáng lập 9 tờ báo: Người vùng khổ (1922); Quốc tế Nông dân (1924); Thanh niên (1925); Công nông (1925); Lính Kách mệnh (1925); Thân ái (1928); Đỏ (1929); Việt Nam Độc lập (1941); Cứu Quốc (1942).
Một trong những văn bản đầu tiên mang ý nghĩa đối thoại với cả thế giới là "Yêu sách của nhân dân An Nam" - do Nguyễn Ái Quốc thay mặt nhóm những người yêu nước An Nam ký tên gửi đến Hội nghị Véc-xây (1/1919). Đây là bản tuyên bố chính trị đầu tiên của nhân dân An Nam, mở ra cuộc đấu tranh đòi quyền dân tộc cơ bản, tự quyết, tự cường. Tất nhiên không được Hội nghị xem xét, nhưng được đăng trên Báo Nhân đạo và công khai gửi tới Tổng thống Mỹ (có kèm "Thư gửi Tổng thống Mỹ", đề ngày gửi 18/6/1919).
Tác giả dịch bản "Yêu sách" ra hai thứ tiếng, bằng chữ Quốc ngữ có tên "Việt Nam yêu cầu ca" và chữ Hán có tên "An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư". Xét trên tinh thần đối thoại văn hóa hiện đại, bản "Yêu sách" cực kỳ quan trọng, ở chỗ nâng vị thế “nhân dân An Nam” từ thân phận nô lệ lên địa vị ngang hàng với “mẫu quốc” và các nước lớn khác, nâng tầm Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của Người ngang hàng với các yếu nhân trên thế giới trong cuộc đối thoại bình đẳng, dân chủ.
Vì lẽ này, trên báo chí thực dân Pháp có ngay bài "Giờ phút nghiêm trọng" (in trên Courrier Colonial ngày 27/6/1919) của tác giả Camilơ Đơvila về “giờ phút nghiêm trọng” đã điểm: sự thức tỉnh của xứ An Nam thuộc địa. Với thái độ kiêu ngạo và ngôn từ giọng điệu sặc mùi “thực dân”, bài báo viết: “Cứ theo đà này thì bọn dân thuộc địa sẽ lên ngang hàng với người Pháp chúng ta và sớm trở thành ông chủ của chúng ta” (1).
Với nhãn quan, phương pháp và bản lĩnh đối thoại cực kỳ linh hoạt, Nguyễn Ái Quốc có ngay bài “Tâm địa thực dân” (2) “đối thoại” với Đơvila. Đúng như tiêu đề, lần đầu tiên, giữa kinh đô Paris có một người dân xứ nô lệ đối thoại với chủ nghĩa thực dân bằng cách đanh thép tố cáo dã tâm xâm lược thuộc địa và sự bóc lột dã man người lao động bản xứ.
Cũng ở bài báo này Nguyễn Ái Quốc là một trong những người đầu tiên đặt viên gạch nền móng cho ngôi nhà đối thoại văn hóa của thế giới hiện đại, ví như về phương thức, thì “về mặt quốc tế, khi người ta nói bình đẳng với nhau, người ta dùng con đường ngoại giao, chứ không phải bằng con đường thỉnh cầu”. Tức chỉ có thể có đối thoại trên cơ sở bình đẳng, dân chủ, tôn trọng lẫn nhau. Tác giả viết tiếp: “Chúng tôi nói với nhân dân Pháp, cũng là nói cả với ông Đơvila”, tức một văn bản đối thoại luôn có nhiều hướng, tác động tới nhiều đối tượng. Đây chính là yêu cầu của văn bản báo chí trong thời hội nhập toàn cầu hóa hôm nay.
Triệt để tuân theo công thức của Lênin và suốt cuộc đời cách mạng đầy huyền thoại Người luôn làm theo chỉ dẫn ấy để trở thành một trong những người đối thoại văn hóa nổi tiếng nhất thế giới: “Tờ báo không chỉ là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, còn là người tổ chức tập thể”. Ngoại giao văn hóa thời 4.0 luôn ưu tiên, coi trọng đối thoại bằng báo chí, qua báo chí. Thế giới càng thấy Hồ Chí Minh là một hình mẫu tiêu biểu đã đi trước thế giới hơn nửa thế kỷ.
Vạch trần bản chất ăn cướp của chủ nghĩa thực dân, bênh vực, thông cảm nhân dân các thuộc địa là mối quan tâm hàng đầu của Nguyễn Ái Quốc. Trong một loạt bài báo, Người dùng những biểu tượng đích đáng, là cá mập - loài cá dữ, háu ăn, tạp ăn, sẵn sàng ăn thịt cả đồng loại:
“Sau khi bị binh lính bắn phá và chém giết, Đông Dương lại bị bọn cá mập thực dân cướp bóc đến tận xương tủy”(3). “Bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để”(4). Là “bầy diều hâu”: “Nói đến các món độc quyền, người ta có thể hình dung Đông Dương như một con nai béo mập bị trói chặt và đương hấp hối dưới những cái mỏ quặp của một bầy diều hâu rỉa rói mãi không thấy no”(5). Diều hâu là loài chim ăn thịt độc ác, tinh ranh nên luôn có các nét nghĩa chỉ sự tham lam đến tàn nhẫn. Các biểu tượng đã nói một cách khái quát nhất bản chất bóc lột, đục khoét, vơ vét của chủ nghĩa tư bản đối với các xứ thuộc địa.

Báo Thanh niên, số ra đầu tiên ngày 21/6/1925.
Trên Tạp chí Quốc tế Nông dân, 1924 (tiếng Nga số 3,4) có in bài "Nông dân Bắc Phi" của Nguyễn Ái Quốc, báo động, cảnh tỉnh giai cấp vô sản thế giới về sự diệt chủng do chủ nghĩa thực dân gây ra: “Người Bắc Phi sẽ biến khỏi mặt đất, nếu giai cấp vô sản giác ngộ không đến cứu họ khỏi nền “văn minh” quái vật”(6). Một câu văn ngắn nhưng gói trong đó vấn đề nóng bỏng của cả thời đại: sự tồn vong của nhân dân các thuộc địa. Phải là một tấm lòng yêu con người thiết tha, sâu nặng; sự căm thù đến cực điểm kẻ ác gây ra tai họa cho loài người; lòng dũng cảm, sự thẳng thắn, quyết liệt, mới có lời văn thống thiết đến đau đớn như vậy.
Trong bài "Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa"(7) đăng trên Đời sống thợ thuyền 1924, Nguyễn Ái Quốc đưa ra một biểu tượng độc đáo, đặc sắc thật đúng với bản chất của chủ nghĩa tư bản là “con đỉa hai vòi”, một vòi hút máu của giai cấp vô sản chính quốc, một vòi hút máu của giai cấp vô sản thuộc địa. Nhiệm vụ của giai cấp vô sản là phải chặt đứt cả hai vòi ác độc ấy.
Trong 2 năm 1923, 1924, Người viết trên 50 bài báo tập trung lên án chủ nghĩa thực dân tàn bạo, kêu gọi đoàn kết giữa những người lao động không phân biệt màu da, sắc tộc, chính quốc hay thuộc địa... Khi theo học Trường Đại học Phương Đông, Người viết "Lênin và các dân tộc thuộc địa" đăng trên BáoSự thật (Liên Xô cũ), ca ngợi, khẳng định công lao vĩ đại mang tính mở đường của Lênin trong công cuộc giải phóng các dân tộc còn đang trong vòng nô lệ.
Nhưng phải đến "Bản án chế độ thực dân Pháp" in trên Báo tập san Inprekorr của Quốc tế Cộng sản 1925, mới thể hiện rõ tài năng báo chí của nhà cách mạng kiệt xuất. Với những số liệu, cứ liệu rõ ràng, chứng cứ thuyết phục, sinh động, lập luận chặt chẽ, ngôn từ mang tính ám ảnh, không chỉ tố cáo sâu sắc, mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, "Bản án"… còn đưa ra những luận điểm cơ bản mang tính kim chỉ nam về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Phần Phụ lục có tên "Gửi thanh niên An Nam" với câu cuối cảm thán, cảnh tỉnh, giục giã: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”.
Như vậy, để chuẩn bị chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam là cả một quá trình chuẩn bị kỹ càng, nghiên cứu thấu đáo, và sự nắm bắt thời cơ. Tất yếu phải mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo đội ngũ cán bộ và phải có một tờ báo chính trị.
Thanh niên ra đời đáp ứng yêu cầu ấy và đã gánh vác sứ mệnh lịch sử một cách vẻ vang. Không chỉ là dấu mốc khởi đầu cho báo chí vô sản Việt Nam, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Thanh niên xứng đáng là tiếng nói cách mạng vạch trần một cách bản chất các mâu thuẫn giữa kẻ xâm lược và bị xâm lược; giữa nhân dân lao động với chủ nghĩa đế quốc, tư bản; kẻ giàu và người nghèo...
Nhưng để có Thanh niên tỏa ánh sáng lý tưởng, trí tuệ, những bài học kinh nghiệm…, để làm cuộc cách mạng giải phóng, như đã phần nào nói ở trên là hàng trăm bài báo của Nguyễn Ái Quốc viết trước 1925 tiên phong mở đường, dọn lối, đến nay trở thành tài sản văn hóa của dân tộc.
------------
(1) "Hồ Chí Minh toàn tập" (2002) NXB Chính trị Quốc gia, tập 1, tr 487 (phần Chú thích); (2). Sđd, tập 1, tr 1;
(3). Sđd, tập 1, tr 388; (4). Sđd, tập 2, tr 97; (5). Sđd, tập 2, tr 36; (6). Sđd, tập 1, tr 258; (7). Sđd, tập 1, tr 298.