Bảo đảm an ninh nguồn nước vùng tây Hà Nội

Mặc dù có nhiều con sông chảy qua, nhưng tình trạng hạ thấp mực lòng dẫn, thiếu nước, ô nhiễm đang đặt ra nhiều thách thức cho việc bảo đảm an ninh nguồn nước vùng tây Hà Nội.

Nước sông Nhuệ đoạn chảy qua địa bàn quận Hà Đông bị ô nhiễm.

Nước sông Nhuệ đoạn chảy qua địa bàn quận Hà Đông bị ô nhiễm.

Tại Việt Nam, nguồn nước phân bổ không đều với tổng lượng dòng chảy mùa lũ chiếm khoảng 70 đến 80%, trong khi mùa khô chỉ từ 20 đến 30%. Ngoài ra, lượng nước mặt sản sinh trong lãnh thổ nước ta chỉ chiếm 37%, còn lại phụ thuộc nhiều vào các sông quốc tế, nhất là sông Mê Công, sông Hồng. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu làm gia tăng các hình thái thời tiết cực đoan, bất định và trái quy luật gây hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, bão, lũ, ngập lụt, úng, sạt lở… ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh nguồn nước. Hơn nữa, phát triển kinh tế-xã hội cũng dẫn đến nhu cầu sử dụng nước tăng về số lượng, yêu cầu về chất lượng; khai thác tài nguyên ảnh hưởng đến hoạt động của các hệ thống thủy lợi, phòng chống thiên tai; nhiều công trình thủy lợi do xây dựng lâu dẫn đến hư hỏng, xuống cấp; công tác quản lý ngành nước còn hạn chế, bất cập.

Ở vùng phía tây Hà Nội với ba quận, một thị xã và 12 huyện, diện tích tự nhiên khoảng 233.570 ha, dân số 3,4 triệu người, diện tích đất nông nghiệp 147 nghìn ha. Khu vực này có các sông như: Đà, Hồng, Đáy, Tích, Nhuệ chảy qua nhưng hiện nay, vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước cũng đang gặp phải những khó khăn do hầu hết các sông đã bị hạ thấp lòng dẫn. Nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi Đỗ Văn Thành cho biết: “Trên sông Đà, tại Trung Hà lòng dẫn bị biến đổi mạnh qua các năm nên hiện nay đã hạ thấp 6 m so với năm 2001, sông Hồng tại Sơn Tây là hơn 7 m. Nguyên nhân là do một phần phù sa bị giữ lại bởi các hồ chứa ở thượng nguồn; phát triển kinh tế-xã hội, hoạt động khai thác cát trái phép quá mức. Vì vậy, một số hệ thống thủy lợi ven sông Hồng, sông Đà trơ đáy, hoạt động kém hoặc không hoạt động được, điển hình như các công trình Lương Phú, Trung Hà, Cẩm Đình, Đan Hoài, Liên Mạc, Hồng Vân. Tại hệ thống thủy lợi sông Nhuệ với nhiệm vụ tưới, cấp nước cho 61.629 ha đất sản xuất, lượng nước lấy vào qua cống Liên Mạc rất khó khăn do mực nước sông Hồng hạ thấp. Trong đó, tháng 1 và tháng 2 hằng năm, cống này lấy được rất ít nước với tổng thời gian mở hai tháng năm 2020 là 10 ngày nhưng đến năm 2023 chỉ còn bốn ngày. Nếu tính cả mùa kiệt từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, tổng thời gian mở cống năm 2023 cũng chỉ còn 32 ngày. Do không lấy được nước cho nên nguồn nước trong hệ thống bị ô nhiễm nghiêm trọng. Còn hệ thống thủy lợi Trung Hà-Suối Hai với nhiệm vụ tưới, cấp nước 5.356 ha nhưng cũng do vấn đề hạ thấp mực nước nên trạm bơm Trung Hà được xây mới từ năm 2012 thì đến năm 2021 không lấy được nước trong mùa kiệt và từ năm 2023 phải lắp đặt bổ sung trạm bơm dã chiến. Đối với hệ thống thủy lợi Phù Sa-Đồng Mô có nhiệm vụ tưới, cấp nước 10.150 ha, trạm bơm Phù Sa cũng không lấy được nước. Hệ thống thủy lợi sông Tích với công trình đầu mối cống Lương Phú đã được đầu tư xây dựng nhưng không lấy được nước do mực nước sông Đà bị hạ thấp nhanh. Điều đáng nói là từ năm 2022 đến nay, mực nước thường xuyên ở mức thấp hơn cao trình đáy cống +5,2 m; trên hệ thống sông Đáy hiện nay nhiều đoạn dòng chảy kém”.

Khu vực phía tây Hà Nội mặc dù đã triển khai các dự án để bảo đảm việc lấy nước cho sản xuất, cấp bổ sung nước cho hạ du, khôi phục dòng chảy… nhưng một số chưa phát huy hiệu quả. Ông Nguyễn Trường Duy, đại diện Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam chia sẻ: “Dự án bổ cập nước sông Tích được phê duyệt từ năm 2010 với mục tiêu lấy nước sông Đà vào sông Tích tưới cho 16.000 ha. Trong đó, giai đoạn 1 được xây dựng từ năm 2011 đến nay cơ bản hoàn thành nhưng không có nước chảy vào. Dự án phục hồi sông Đáy có nhiệm vụ lấy nước sông Hồng vào sông Đáy với lưu lượng về mùa kiệt 36 m3/giây, mùa lũ 70 m3/giây; cấp bổ sung nước cho hạ du phục vụ sản xuất và sinh hoạt, cải tạo môi trường sinh thái, khôi phục dòng chảy, kết hợp giao thông vận tải thủy. Dự án hoàn thành năm 2008 nhưng do mực nước sông Hồng thấp, không có nước chảy vào”.

Do các công trình đầu mối không lấy được nước và chưa tách, xử lý được các nguồn xả thải trước khi đổ vào công trình thủy lợi dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở một số sông, hệ thống thủy lợi. Theo thống kê, chỉ số chất lượng nước năm 2024 trên trục sông Nhuệ từ Liên Mạc tới Lương Cổ từ 20 đến 40, trong đó nhiều đoạn ô nhiễm nặng. Đặc biệt, các thông số chất lượng nước ở hầu hết các thời điểm quan trắc đều vượt giới hạn cho phép. Bên cạnh đó, vùng phía tây Hà Nội cũng là khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi lũ, ngập úng, lụt. Trong đó, ngập úng đô thị khu vực Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm; ngập lụt các khu dân cư và sản xuất chủ yếu ở các xã Nam Phương Tiến và Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ; lũ lớn trên sông Đáy, sông Bùi gây nhiều khó khăn trong tiêu thoát nước và ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Nguyên nhân là do lòng dẫn sông Đáy, sông Bùi, sông Tích bị bồi lấp, co hẹp, khó tiêu thoát nước.

Nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước cho vùng tây Hà Nội, theo ông Thành, thời gian tới cần có giải pháp để dâng cao đầu nước bảo đảm cấp nước cho các trạm bơm như: Trung Hà, Phù Sa, cống Liên Mạc, cống Cẩm Đình… Đồng thời cần nâng cấp, cải tạo, bổ sung công trình đầu mối và hệ thống kênh dẫn bảo đảm nước tưới; hoàn thiện hệ thống kênh dẫn, khắc phục bồi lắng các trục tiêu. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần quản lý hiệu quả việc khai thác cát trên sông Đà, sông Hồng; thực hiện việc xử lý nước thải trước khi đổ vào sông Nhuệ, sông Đáy; thực hiện đầu tư các công trình theo quy hoạch, đặc biệt là các công trình lớn trên sông Hồng; tập trung giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn nước do hạ thấp mực nước và ngập lụt, úng kéo dài khi xảy ra mưa, lũ lớn; nâng cao năng lực quản lý vận hành công trình thủy lợi…”.

Bài và ảnh: NGUYÊN PHÚC

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/bao-dam-an-ninh-nguon-nuoc-vung-tay-ha-noi-post863101.html
Zalo