Bãi bỏ nhiều ngành kinh doanh có điều kiện, quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh
Bộ Tài chính kiến nghị bãi bỏ 16 ngành nghề trong danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện và thu hẹp phạm vi một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ cải thiện môi trường kinh doanh, hiện thực hóa các chủ trương tại Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Cắt giảm danh mục ngành kinh doanh có điều kiện chưa thực chất
Những năm qua, cải cách thủ tục hành chính và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh luôn là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ nhằm khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng.
Luật Đầu tư năm 2014 có 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, đến Luật Đầu tư 2020 con số này giảm còn 237. Nhiều thủ tục, yêu cầu về vốn, về phương án kinh doanh hay về quy hoạch đã lần lượt được bãi bỏ, góp phần đáng kể vào việc nâng cao chỉ số môi trường kinh doanh, giúp doanh nghiệp bớt gánh nặng thủ tục.
Tuy nhiên, ý kiến của doanh nghiệp qua các khảo sát cho thấy, việc “cắt giảm” danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện vẫn chưa thực chất. Phần nhiều chỉ là gộp tên, đổi tên ngành nghề, còn cơ chế quản lý vẫn nghiêng về “tiền kiểm”.

Cắt giảm các điều kiện kinh doanh có điều kiện, góp phần tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Ảnh: ĐỨC THANH
Điều này tạo ra rào cản gia nhập thị trường, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ và vừa, cản trở tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo. Trong khi đó, một số ngành nghề mới xuất hiện, tiềm ẩn rủi ro phức tạp về an ninh, an toàn thông tin, sức khỏe cộng đồng (như kinh doanh nền tảng chia sẻ dữ liệu cá nhân, kinh doanh công nghệ deepfake…) lại chưa được bổ sung vào danh mục có điều kiện.
Trước thực tế này, tại dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh (thay thế Luật Đầu tư) đang được lấy ý kiến, Bộ Tài chính kiến nghị bãi bỏ 16 ngành nghề cụ thể, mà qua đánh giá cho thấy không thực sự cần thiết phải kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh.
Đó là: dịch vụ kế toán; xuất khẩu gạo; tạm nhập tái xuất thực phẩm đông lạnh; hoạt động mua bán hàng hóa của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam; dịch vụ việc làm; dịch vụ cho thuê lại lao động; dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô; đóng mới, sửa chữa phương tiện thủy nội địa, tàu biển; nghiên cứu, chế tạo UAV và phương tiện bay không người lái; hoạt động xây dựng của nhà thầu nước ngoài; quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng; dịch vụ tư vấn du học; dịch vụ phổ biến phim; biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, tổ chức thi người đẹp, người mẫu; in, đúc tiền.
Để làm rõ nguyên tắc xác định điều kiện đầu tư kinh doanh, dự thảo đã bổ sung quy định “điều kiện đầu tư kinh doanh là yêu cầu, điều kiện về năng lực, trình độ chuyên môn, nhân lực, cơ sở vật chất, hệ thống quản lý mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, không bao gồm các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật mà cấp có thẩm quyền ban hành về chất lượng sản phẩm, dịch vụ”.
Việc bổ sung quy định này là cơ sở để rà soát, sàng lọc và phân định các ngành, nghề đầu tư kinh doanh thực sự cần thực hiện “tiền kiểm”. Đồng thời, chuyển các ngành, nghề đang quy định điều kiện đầu tư kinh doanh áp dụng đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra mà có thể kiểm soát bằng các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật sang cơ chế “hậu kiểm”.
Bên cạnh bãi bỏ, dự thảo Luật cũng đề xuất thu hẹp, xem xét lại phạm vi của một số ngành nghề. Theo đó, kinh doanh phân bón chỉ áp dụng điều kiện với hoạt động sản xuất, nhập khẩu, bỏ hoạt động buôn bán khỏi diện có điều kiện. Vàng trang sức thủ công mỹ nghệ được bỏ khỏi diện có điều kiện. Hoạt động mua bán giống thủy sản thông thường cũng được đưa ra khỏi diện có điều kiện.
Dịch vụ khai thác tài nguyên nước sẽ được xác định lại tên gọi và phạm vi để tránh trùng lặp với ngành “kinh doanh nước sạch”.
Đặc biệt, Bộ Tài chính đã đề xuất lược bỏ toàn bộ danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện khỏi luật và giao Chính phủ ban hành chi tiết. Điều này nhằm đảm bảo Chính phủ sẽ có sự linh hoạt, chủ động trong việc điều chỉnh kịp thời khi xuất hiện ngành nghề mới có nguy cơ rủi ro cho lợi ích công cộng.
Xóa cơ chế "xin cho", quyết tâm cải cách thực chất
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã đặt ra các nhiệm vụ “đổi mới tư duy xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật …; giảm thiểu sự can thiệp và xóa bỏ các rào cản hành chính, cơ chế "xin - cho", tư duy "không quản được thì cấm".
Nghị quyết khẳng định, “người dân, doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm. Quyền kinh doanh chỉ có thể bị hạn chế vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, môi trường và sức khỏe của cộng đồng và phải được quy định trong luật”. Đồng thời, yêu cầu “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, xóa bỏ các rào cản tiếp cận thị trường đảm bảo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định lâu dài, dễ tuân thủ, chi phí thấp”.
Đồng thời, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã đề ra mục tiêu: “Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những "điểm nghẽn" do quy định pháp luật… Năm 2028, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN”.
Vì vậy, việc Bộ Tài chính đề xuất lược bỏ, thu hẹp phạm vi nhiều ngành nghề kinh doanh có điều kiện, cùng với các sửa đổi căn bản, đột phá về cắt giảm thủ tục, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh không chỉ là giải pháp mạnh mẽ nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, mà còn là bước đi cụ thể để hiện thực hóa các yêu cầu tại các nghị quyết "bộ tứ trụ cột".
Đây chính là thông điệp mạnh mẽ cho cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư quốc tế về quyết tâm cải cách thể chế, xây dựng một môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch, nhất quán và ổn định lâu dài.
Dù vậy, để cải cách đi vào thực chất, cần có sự đồng thuận, quyết tâm đổi mới từ các cơ quan liên quan. Thực tế cho thấy, nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành vẫn muốn giữ lại điều kiện kinh doanh như một công cụ kiểm soát. Thách thức lớn nhất ở đây chính là thay đổi tư duy quản lý từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, từ quản lý chặt ngay từ đầu sang giám sát hiệu quả trong quá trình hoạt động.
Nhiều ngành nghề kinh doanh không cần thiết có điều kiện
Theo cơ quan soạn thảo luật, trước năm 2014, dịch vụ kế toán được coi là ngành kinh doanh thông thường và không phát sinh rủi ro ảnh hưởng đến lợi ích công cộng. Trách nhiệm chính thuộc về đơn vị kế toán thuê dịch vụ chứ không phải doanh nghiệp cung cấp. Với các trường hợp đặc biệt, pháp luật đã có công cụ là kiểm toán. Vì thế, việc coi kế toán là ngành nghề có điều kiện bị đánh giá là bất hợp lý.
Đối với xuất khẩu gạo, hiện pháp luật đã có những quy định riêng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Điều kiện như “phải có kho chuyên dùng, cơ sở xay xát” thực chất thuộc phạm vi tự chủ của doanh nghiệp. Kiểm soát chất lượng gạo xuất khẩu nên thông qua tiêu chuẩn hàng hóa, không phải điều kiện gia nhập thị trường.
Tương tự, kinh doanh tạm nhập, tái xuất thực phẩm đông lạnh có rủi ro lớn nhất là liên quan đến an toàn thực phẩm, song điều này hoàn toàn có thể kiểm soát ở từng lô hàng thông qua thủ tục hải quan, thay vì buộc doanh nghiệp phải đáp ứng điều kiện từ khi thành lập.
Đối với các lĩnh vực như đóng mới, sửa chữa phương tiện thủy nội địa và tàu biển, cơ quan soạn thảo cho rằng, việc kiểm soát được đảm bảo thông qua khâu đăng kiểm, cấp giấy chứng nhận an toàn trước khi phương tiện lưu thông. Do đó, việc buộc doanh nghiệp phải có điều kiện ngay từ đầu là trùng lặp và không cần thiết.