Bài 3: Những điểm nghẽn trong tiến trình chuyển đổi
Nông nghiệp xanh, đa giá trị, nông nghiệp tuần hoàn là hướng đi tất yếu của một nền nông nghiệp đô thị, nhằm nâng cao giá trị nông sản, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Hà Nội đã gặt hái không ít thành công cùng hướng đi này, song cũng đối mặt với nhiều thách thức và nhiều điểm nghẽn cần được tháo gỡ.
N
ông nghiệp xanh, đa giá trị, nông nghiệp tuần hoàn là hướng đi tất yếu của một nền nông nghiệp đô thị, nhằm nâng cao giá trị nông sản, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Hà Nội đã gặt hái không ít thành công cùng hướng đi này, song hành trình “xanh hóa” nông nghiệp của Thủ đô vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức và nhiều điểm nghẽn cần được tháo gỡ trong tiến trình chuyển đổi.

Nông nghiệp xanh - nông nghiệp tuần hoàn là một phần quan trọng trong chiến lược xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn giai đoạn 2021-2030 của Hà Nội. Thành phố đã triển khai nhiều chính sách, tạo cơ chế khuyến khích các mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, sử dụng chế phẩm sinh học, tận dụng phụ phẩm để tái tạo tài nguyên, hạn chế phát thải, gây ô nhiễm môi trường…
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, phần lớn các hộ nông dân trên địa bàn thành phố sản xuất theo mô hình nhỏ lẻ, tự phát. Việc ứng dụng công nghệ xanh, hay tổ chức các chuỗi tuần hoàn khép kín, như tái sử dụng nước thải, phân hữu cơ, phụ phẩm chăn nuôi… là thách thức lớn. Mặt khác, sản xuất quy mô nhỏ và hạn chế về nguồn vốn, khiến nông dân không đủ năng lực đầu tư vào công nghệ mới, hệ thống xử lý chất thải, nhà màng, hay thiết bị tiết kiệm nước vốn là những yếu tố không thể thiếu của nông nghiệp xanh.
“Tôi rất muốn làm theo mô hình hữu cơ, xanh sạch, nhưng đất ít, vốn không có. Do đó, nhiều năm nay vẫn sản xuất theo hướng truyền thống”, bà Nguyễn Thị Tâm, một hộ nông dân ở xã Đan Phượng chia sẻ.
Ông Nguyễn Tuấn Hồng, đại diện Hợp tác xã Sản xuất và Tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng băn khoăn: Cách đây 8 năm, Hợp tác xã đã được hỗ trợ tem truy xuất, sản xuất xanh, sạch, nhưng sau 2 năm thí điểm, phải bỏ. Theo ông, có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân lao động nông nghiệp chủ yếu là lao động lớn tuổi, nên tiếp cận với công nghệ rất hạn chế.
“Luật Thủ đô (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua, có nhiều quy định hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Tôi mong muốn lãnh đạo thành phố và các sở, ngành liên quan triển khai cụ thể tới cơ sở. Chúng ta đang thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, nên chúng tôi mong muốn chính sách đến cơ sở được thực hiện nhanh chóng, kịp thời hơn so với trước kia”, ông Nguyễn Tuấn Hồng nêu ý kiến.
Không chỉ dừng lại ở nguồn vốn, hay cung cách sản xuất tự phát, hạ tầng cho nông nghiệp xanh cũng là câu chuyện dài. Tại hầu hết các vùng canh tác của Thủ đô, hạ tầng phục vụ sản xuất như thủy lợi nội đồng, hệ thống thu gom, xử lý nước thải, nhà sơ chế, kho lạnh bảo quản sau thu hoạch vẫn chưa được đầu tư đồng bộ. Nông dân vẫn xử lý chất thải nông nghiệp bằng biện pháp thủ công, gây lãng phí tài nguyên, đồng thời làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường nông thôn. Một số mô hình xử lý chất thải quy mô cộng đồng đã được thử nghiệm tại Sóc Sơn, Thường Tín… cho kết quả khả quan, nhưng chưa thể nhân rộng vì thiếu vốn đầu tư, thiếu hướng dẫn kỹ thuật và thiếu đầu ra cho sản phẩm tái chế.

Hạ tầng giao thông kết nối đang mở đường cho chuyển đổi xanh, số hóa phát triển tại xã Vĩnh Thanh. Ảnh: CTV

Chăn nuôi công nghệ cao tại xã Kiều Phú. Ảnh: Quỳnh Dung

Chăn nuôi công nghệ cao tại xã Thư Lâm. Ảnh: Quỳnh Dung

Trồng rau thủy canh tại xã Thanh Trì. Ảnh: CTV
Đó cũng là trăn trở của Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn Thanh Điềm (xã Yên Lãng) Nguyễn Văn Đảng - Bí thư thôn trẻ tuổi nhất trong các chi bộ của Đảng ủy xã Yên Lãng khi mong mỏi xây dựng một thôn thông minh, sản xuất nông nghiệp đều được số hóa. Theo anh Đảng, trong sinh hoạt chi bộ tháng 8 vừa qua, Chi bộ thôn Thanh Điềm đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế nông thôn. Nghị quyết đề ra trọng tâm phát huy thế mạnh ở địa phương và đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số vào sản xuất, tiêu thụ nông sản. Song, hạ tầng sản xuất, nhân lực vẫn đang là “rào cản” để thôn hiện thực hóa mong muốn đó.
Thực tế cũng cho thấy, nhiều vùng rau an toàn, vùng chăn nuôi trọng điểm vẫn chưa hình thành được hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển bền vững. Trong khi đó, sản xuất xanh đòi hỏi vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, mà khả năng tiếp cận vốn của nông dân hạn chế. Điều này đã và đang tác động tiêu cực cho nông nghiệp Thủ đô. Hạ tầng thiếu và công nghệ chậm phát triển đang tác động kép đối với nông nghiệp Hà Nội. Một mặt, môi trường nông thôn tiếp tục chịu áp lực ô nhiễm do chất thải không được xử lý đúng quy trình; mặt khác, năng suất và giá trị sản phẩm khó được nâng cao, khiến nông dân thiếu động lực đầu tư vào mô hình xanh…

Đặc biệt, Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt xác định: "Phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, hội nhập quốc tế gắn với quá trình chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, phát triển kinh tế tuần hoàn. Khai thác và sử dụng hiệu quả các lợi thế về địa chính trị, địa kinh tế, điều kiện tự nhiên. Bảo tồn, phát huy bản sắc, văn hóa, lịch sử nghìn năm văn hiến, các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của vùng đất Thăng Long - Hà Nội". Theo đó, nền nông nghiệp xanh nằm trong lòng đô thị nghìn năm văn hiến cũng cần có những điểm nhấn và bản sắc riêng.
Trao đổi với Báo Hànôịmới xung quanh câu chuyện hạ tầng cho nông nghiệp xanh, Tiến sỹ Đào Ngọc Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam cho rằng, Hà Nội có đủ tiềm năng để trở thành trung tâm nông nghiệp đô thị xanh của cả nước. Để đạt được điều đó, thành phố phải vượt qua “nút thắt” hạ tầng và công nghệ là hai yếu tố đang kìm hãm quá trình chuyển đổi. Đầu tư hạ tầng đồng bộ, ứng dụng công nghệ toàn diện là chìa khóa mở cánh cửa hiện thực hóa mục tiêu xanh hơn, sạch hơn, bền vững hơn.

Tại các hội thảo, tọa đàm về nông nghiệp Hà Nội trên chặng đường mới, nhiều nhà quản lý, nhà nghiên cứu có chung nhận định: Tiêu thụ sản phẩm được xem là khâu yếu nhất trong chuỗi nông nghiệp xanh hiện nay. Nhiều loại nông sản được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ hoặc an toàn sinh học, nhưng trên thị trường lại không có cơ chế phân biệt rõ ràng. Người tiêu dùng khó nhận diện, còn người sản xuất không được hưởng lợi xứng đáng.
Chia sẻ với phóng viên Báo Hànôịmới, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Rau quả sạch Chúc Sơn (phường Chương Mỹ) Hoàng Văn Thám ví nông sản số, truy xuất nguồn gốc và nông sản trôi nổi là "Cuộc chiến không cân sức”. Theo ông Thám, Hợp tác xã Rau quả sạch Chúc Sơn đã phối hợp với nhiều đơn vị triển khai hoạt động truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Tuy nhiên, để đưa hàng hóa vào hệ thống siêu thị, trường học…, các thủ tục liên quan đến truy xuất nguồn gốc vẫn phức tạp, đòi hỏi nhiều bước và chi phí lớn. Việc phải hoàn thiện hồ sơ, bộ tiêu chuẩn truy xuất theo quy định dẫn đến chi phí của Hợp tác xã, doanh nghiệp tăng cao, chưa kể các khoản thuế liên quan. Trong khi đó, giá bán sản phẩm vào siêu thị, trường học vẫn ở mức thấp, khiến nông sản có truy xuất nguồn gốc phải cạnh tranh gay gắt với hàng hóa, thực phẩm bày bán ngoài chợ...
Chung băn khoăn, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Đại Lan (xã Nam Phù) Đặng Bá Thắng cho biết: “Chúng tôi đầu tư sản xuất rau an toàn, có kiểm soát nhưng giá bán trên thị trường chỉ nhỉnh hơn rau thường đôi chút. Phần lớn sản phẩm vẫn phải bán cho thương lái, chưa có hợp đồng bao tiêu ổn định”.

Hà Nội cần nhân rộng nhiều mô hình rau ứng dụng công nghệ cao, góp phần hình thành nền nông nghiệp xanh, đa giá trị. Ảnh: Nguyễn Vàn.


Hà Nội cần nhân rộng nhiều mô hình rau ứng dụng công nghệ cao góp phần hình thành nền nông nghiệp xanh, đa giá trị. Ảnh: CTV

Dây chuyền sản xuất trứng gia cầm công nghệ cao của Công ty cổ phần Ba Huân Hà Nội. Ảnh: HT
Thực tế cho thấy, liên kết vẫn là vấn đề "nóng" không chỉ với nông nghiệp Hà Nội. Dù đã được đề cập từ nhiều năm trước, song đến thời điểm hiện tại, hoàn toàn có thể khẳng định: Liên kết giữa người sản xuất - doanh nghiệp - hệ thống phân phối vẫn là nút thắt lớn. Nhiều hợp tác xã không đủ năng lực chứng nhận chất lượng sản phẩm hoặc sản lượng chưa ổn định, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm dài hạn. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ của thành phố như ưu đãi tín dụng, chứng nhận VietGAP, hữu cơ… đã được triển khai, nhưng khả năng tiếp cận của hợp tác xã, nông dân còn hạn chế. Không ít hộ sản xuất không nắm được thông tin hoặc gặp vướng mắc trong thực hiện thủ tục hành chính khi xin cấp phép xây dựng nhà màng, hệ thống xử lý chất thải.
Trong hàng loạt vấn đề đang đặt ra từ thực tế, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội cho biết, thành phố đã thúc đẩy ứng dụng tem truy xuất nguồn gốc, mã QR để minh bạch hóa thị trường nông sản, tuy nhiên, việc áp dụng mới ở giai đoạn đầu, chưa tạo được hiệu quả lan tỏa mạnh mẽ… Như vậy, khoảng cách giữa niềm tin của người tiêu dùng với nông sản vẫn chưa được lấp đầy sau hàng loạt vấn đề liên quan đến an toàn thực phẩm.

Ở góc nhìn khác, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Hoàng Văn Hồng cho rằng, một bộ phận lớn nông dân hiện vẫn chưa thực sự hiểu rõ khái niệm “nông nghiệp xanh”, “nông nghiệp tuần hoàn”. Họ chỉ tập trung vào năng suất và lợi nhuận ngắn hạn, trong khi phương pháp canh tác xanh đòi hỏi đầu tư lâu dài, kiến thức kỹ thuật bài bản và tư duy hệ thống. Hơn nữa, lực lượng khuyến nông, cán bộ kỹ thuật hỗ trợ cho mô hình tuần hoàn không thể lấp đầy các khoảng trống tại địa phương; các lớp đào tạo, chuyển giao công nghệ chưa phủ rộng đủ để thay đổi thói quen sản xuất lâu đời của người dân.
Còn theo Phó Chủ tịch UBND xã Thanh Oai Nguyễn Hồng Hải, quá trình xây dựng nông nghiệp xanh, số hóa, đa giá trị còn nhiều hạn chế, do năng lực của nông dân và hợp tác xã chưa theo kịp yêu cầu mới. Nông dân vẫn quen sản xuất nhỏ lẻ, ngại thay đổi tập quán, thiếu kỹ năng công nghệ và kiến thức thị trường. Để chuyển đổi thực chất, cần nâng cao nhận thức, trình độ số cho nông dân, tăng năng lực quản trị cho hợp tác xã và có cơ chế hỗ trợ tín dụng, hạ tầng, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp xanh.
Một vấn đề không thể không nói đến trong tiến trình tạo dựng nền nông nghiệp xanh, bền vững cho Thủ đô là tốc độ đô thị hóa nhanh và năng lực quy hoạch, quản lý, sử dụng đất. Những yếu tố này không chỉ gây sức ép lên quỹ đất nông nghiệp, mà còn tạo ra không ít hệ lụy. Đất canh tác xen kẽ khu dân cư, khu công nghiệp…, khiến việc tổ chức vùng sản xuất tập trung - yếu tố cần thiết để hình thành mô hình tuần hoàn - đang đối mặt với nhiều thách thức. Mặt khác, nhiều vùng đất nông nghiệp tại Hà Nội đang đứng trước nguy cơ bị thu hẹp hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng, hay tình trạng quy hoạch treo, dự án chậm triển khai cũng tác động không nhỏ đến doanh nghiệp, hộ nông dân khi tham gia đầu tư lâu dài vào nông nghiệp xanh phải huy động nguồn vốn lớn, thời gian dài.
Từ những vấn đề nêu trên có thể nhận định, khi chưa có cơ chế pháp lý rõ ràng cho nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xử lý phụ phẩm, biến chất thải thành tài nguyên, hình thành các chuỗi liên kết “nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp - thị trường” cùng tình trạng “mạnh ai nấy làm”…, thì chưa thể rút ngắn đường đến thành công.
Nông nghiệp xanh, tuần hoàn là xu hướng tất yếu, phù hợp yêu cầu phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải của Hà Nội và Việt Nam. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, khoảng cách giữa mục tiêu xanh hóa nông nghiệp và năng lực thực tế vẫn chưa rút ngắn được bao nhiêu. Để “hành trình xanh” này thực sự hiện hữu trong đời sống, các cấp chính quyền, doanh nghiệp và nông dân - những chủ thể vừa kiến tạo, vừa thụ hưởng giá trị từ nền nông nghiệp thân thiện môi trường, cần ý thức rõ trách nhiệm của mình và trách nhiệm với cộng đồng.
XEM TIẾP

Bài 4: Nông nghiệp sẽ là một không gian kinh tế





























