Bài 2: Tuổi trẻ miền Nam với công trình Thủy điện Trị An
xây dựng Thủy điện Trị An, lực lượng công nhân, thanh niên xung phong của tỉnh Đồng Nai và nhiều tỉnh, thành đã đào lấp khối lượng đất đá 'khủng' khoảng 23 triệu m3, dùng 73.000 tấn kết cấu sắt thép, thiết bị, 580.000 tấn bê tông và thời điểm đó phải sử dụng rất nhiều sức người.
Chỉ trong 5 năm (1982 - 1987), Thủy điện Trị An được ngăn dòng, vào năm 1989 có 4 tổ phát điện cơ bản đã ráp xong thử tải, truyền tải và đến năm 1991, công trình khánh thành đưa vào hoạt động toàn bộ. Với khối lượng công việc đồ sộ, quá trình thực hiện thần tốc như vậy, kết quả cuối cùng đạt được là nhờ vào sự “quyết tâm lịch sử” hết sức mạnh mẽ, sự đóng góp to lớn của tuổi trẻ miền Nam. Thời điểm đó, hàng trăm nghìn công nhân cùng thanh niên xung phong các tỉnh, thành miền Nam đã “quên mình” làm việc quần quật giữa rừng sâu, nước độc.
Nhiều người chết vì bệnh tật, sốt rét rừng
Những cán bộ quản lý từng tham gia trực tiếp vào việc xây dựng Thủy điện Trị An một thời cho biết, để xây dựng Thủy điện Trị An, Chính phủ đã phải huy động tổng lực về nguồn lực xã hội, đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có tay nghề và các thiết bị máy móc phục vụ công tác thi công. Thực tế thời điểm đó, khi thi công công trình tầm cỡ đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước hết sức gian nan. Từ khâu khảo sát, đo đạc, tính toán số liệu, áp dụng khoa học kỹ thuật, thiết kế thi công đến vận chuyển nguyên vật liệu, nạo vét lòng hồ… cơ bản đều ở giai đoạn khá “sơ khai” về trình độ khoa học kỹ thuật, hầu hết được thực hiện thủ công.
Trong hoàn cảnh đó, để làm nên một công trình có thể nói là “kỳ vĩ”, ngoài công tác hoạch định từ cấp lãnh đạo, thì đóng góp từ sức trẻ của lực lượng công nhân, thanh niên xung phong được coi là điều kiện tiên quyết.
Ông Phạm Công Trữ, nguyên Chánh Văn phòng Đảng ủy công trình Thủy điện Trị An, từng làm việc tại Thủy điện Trị An từ năm 1981, là một trong những thanh niên hừng hực khí thế ngày ấy, một “nhân chứng” chứng kiến cả thời kỳ chuẩn bị, quá trình xây dựng thủy điện.
Ông Trữ nhớ lại, khi triển khai thi công xây dựng Thủy điện Trị An, một trong những việc đầu tiên là phải mở đường để phục vụ việc vận chuyển và đi lại. Sau nhiều tháng ròng, các đoàn khảo sát đã cho thực hiện “cắt đường” theo hướng từ Ngã ba Cây Gáo (huyện Vĩnh Cửu) ra Ngã ba Trị An (huyện Trảng Bom bây giờ), dài khoảng 18km. Nơi này, ngày đó toàn tuyến chủ yếu là sình lầy, rất ít dân cư. Liên hiệp Xí nghiệp Thủy lợi 4 lúc đó được giao thực hiện gấp rút và chỉ trong một năm (1982 - 1983) con đường đất đá hoàn thành, nguyên vật liệu xây dựng công trình lúc đó mới có thể tiếp cận công trường.
Theo ông Trữ, thời điểm đó riêng tỉnh Đồng Nai đã thành lập Xí nghiệp Liên hiệp khai thác, dọn sạch lòng hồ Trị An (thuộc Ty Lâm nghiệp Đồng Nai) đã huy động gần 1 triệu lượt người với 6 triệu ngày công thu gom, làm sạch trắng hơn 30.000ha rừng lòng hồ. Hơn 19.000 người thuộc các huyện Vĩnh Cửu, Tân Phú, Thống Nhất và ba lâm trường Mã Đà, Vĩnh An, Hiếu Liêm cũng được thực hiện di dời khỏi vùng lòng hồ. Riêng tuyến chuyên về năng lượng - xây dựng nhà máy, do Tổng Công ty Xây dựng số 1 (Bộ Xây dựng) thực hiện, lúc đầu có 3.000 công nhân, cao điểm lên đến 10.000 công nhân tham gia thi công. Tuyến “áp lực” - tuyến xây dựng đập chính do Liên hiệp Xí nghiệp Thủy lợi 4 (Bộ Thủy lợi) phụ trách, lúc đầu có 2.000 người, sau đó lên 4.000 người. Tất cả, đều cùng chung sức chung lòng, không ngại gian khổ, làm việc không kể ngày đêm.
“Tinh thần làm việc hết sức quyết liệt. Công đoạn đầu tiên là phải khai thác trắng rừng và tất cả phế tạp để dọn sạch lòng hồ. Đến công đoạn xây đập, rất nhiều công ty, đơn vị thủy lợi làm việc cùng lúc, ào ạt đào đất, xây dựng bê tông cốt thép. Mấy trăm nghìn công nhân cùng thanh niên các tỉnh, thành miền Nam làm quần quật giữa rừng sâu, nước độc. Cán bộ văn phòng cũng phải làm ngày, làm đêm, vừa làm vừa nghiên cứu…”, ông Trữ nhớ lại.
Còn Tiến sỹ Trần Văn Mùi (nguyên cán bộ Lâm trường Hiếu Liêm, sau này là Giám đốc Khu bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai) thuộc lớp thanh niên thời ấy, tham gia vào công cuộc xây dựng Thủy điện Trị An ngay từ những ngày đầu, nhớ lại: Nếu như một thời gian sau, đất nước bắt đầu phát triển, có các máy móc, phương tiện thi công hiện đại thì ngày đó, khi thi công xây Thủy điện Trị An có thể nói chủ yếu là dựa vào sức người. Thi công một công trình “kỳ vĩ” như vậy nhưng thời đó không có điện, đường sá đi lại hết sức khó khăn, thổ nhưỡng hoang sơ, rừng thiêng nước độc, tai nạn và thậm chí thú dữ luôn rình rập.
Theo báo cáo tổng kết quá trình thực hiện công trình Thủy điện Trị An, trong quá trình xây dựng thủy điện này, đã có 112 người chết vì sốt rét rừng, tai nạn, trong đó có cả các chuyên gia Liên Xô! “Quyết liệt mà hy sinh, gian khổ nhiều lắm”, Tiến sỹ Trần Văn Mùi bồi hồi nhớ lại thời trai trẻ.
“Ánh điện của lòng dân”
Ngoài tư liệu từ Phòng truyền thống Nhà máy Thủy điện Trị An, chúng tôi còn thu thập thêm được những tài liệu quý khác từ các “nhân chứng”, từ các số liệu cũng như tình cảm của những “người trong cuộc”. Ánh điện của Thủy điện Trị An chính là ánh điện của lòng dân - như lời của một số công nhân, cán bộ của thời xây đập thủy điện nhắc tới.
Có thể thấy, thành công trong việc xây dựng Thủy điện Trị An là nhờ sự ủng hộ to lớn, sự động viên, đóng góp quý báu của người dân khắp nơi lúc đó, ngoài người dân các tỉnh, thành phía Nam, còn của đồng bào trên cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài.
Sự ủng hộ sâu rộng của người dân lúc đó đối với việc xây dựng Thủy điện Trị An như đã trở thành “phong trào cách mạng quần chúng”, đóng góp, ủng hộ đầy hiệu quả. Sự ủng hộ đóng góp về nhân tài vật lực, thực tế được quy đổi bằng tiền thời điểm đó khoảng hơn 100 tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng đầu tư ngân sách Nhà nước dành cho xây dựng công trình.
Sự đóng góp đúng lúc, kịp thời đã đưa đến một hiệu quả lớn, tác dụng quyết định đến thực hiện công trình. Chẳng hạn như với 100 triệu đồng đầu tiên, lập tức được phân bổ để triển khai nhanh khu phụ trợ, góp phần rút ngắn thời gian chuẩn bị xây dựng một năm, trong khi Nhà nước chưa kịp điều chỉnh vốn, giúp tạo cơ sở để công trình được đưa vào danh mục công trình trọng điểm quốc gia. Số tiền ban đầu đó cũng giúp mua bổ sung thiết bị thi công trong lúc nước bạn Liên Xô chưa cấp hỗ trợ (do Việt Nam cam kết tự lực khâu thiết bị trong giai đoạn đầu), đồng thời dùng trợ cấp ăn ca cho cán bộ, công nhân trên công trường xây dựng…
Theo số liệu chính thức từ Phòng truyền thống Nhà máy Thủy điện Trị An, riêng tỉnh Đồng Nai thời điểm đó đã chủ trì huy động sức dân là chính để thu dọn vệ sinh lòng hồ, cao điểm lúc ấy đã huy động tới 20.000 lao động trong một ngày, để thu dọn trên 28.000ha rừng lòng hồ nhằm kịp tiến độ.
Tinh thần đóng góp, ủng hộ và lao động đã đến từ khắp các tầng lớp, từ công nhân, thanh niên xung phong đến những kỹ sư trẻ trên bàn giấy, những quân nhân sau chiến tranh. Theo lời kể của những người trong cuộc, tại công trường Thủy điện Trị An ngày ấy đêm đêm các đoàn nghệ thuật cải lương, ca múa nhạc, kịch, xiếc, các đội chiếu phim, thông tin lưu động, các tổ văn nghệ thanh niên xung phong thường xuyên biểu diễn phục vụ “món ăn tinh thần” cho cán bộ, công nhân với đúng như tinh thần cách mạng “tiếng hát át tiếng bom” của những ngày cả nước đồng sức đồng lòng đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập dân tộc.
“Rộn ràng lắm, cả một thời tuổi trẻ hừng hực khí thế cách mạng. Đúng, đúng là ánh điện của lòng dân. Cả nước đồng sức đồng lòng…” - Tiến sỹ Trần Văn Mùi chia sẻ với phóng viên Báo điện tử Xây dựng.
Bài dự thi viết về Công trình xanh Việt Nam năm 2024 do Báo Xây dựng phát động. Ban tổ chức cuộc thi không trả nhuận bút các bài dự thi. Tác giả chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực và bản quyền bài viết.