Bài 2: Kiến tạo môi trường sáng tạo cho nhân lực số
Công nghiệp công nghệ số đã đặt nền móng thể chế cho phát triển nhân lực số, nhưng yếu tố then chốt quyết định khả năng giữ chân người tài nằm ở môi trường thực thi. Không chỉ là lương thưởng, người giỏi còn cần cơ hội phát triển, không gian sáng tạo.

Robot ứng dụng trí tuệ nhân tạo MISA AVA tại Triển lãm sách khoa học và công nghệ 2025.
Thực tiễn từ các doanh nghiệp lớn đến startup công nghệ, từ chính sách quốc gia đến mô hình địa phương cho thấy, chỉ khi tạo dựng được một môi trường sáng tạo thực chất, nhân tài Việt mới có thể phát huy tối đa năng lực và gắn bó lâu dài.
Doanh nghiệp dẫn dắt bằng môi trường và cơ hội phát triển
Việc Luật Công nghiệp công nghệ số sẽ có hiệu lực từ 1/1/2026 đánh dấu bước chuyển trong tư duy phát triển: Từ ưu đãi hành chính sang kiến tạo hệ sinh thái sáng tạo, lấy con người làm trung tâm. Hưởng ứng tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), các tập đoàn công nghệ lớn như VNPT, Viettel đều có những chiến lược cụ thể để xây dựng nguồn nhân lực số chất lượng.
Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) Tào Đức Thắng cho biết, Viettel xây dựng mô hình “trường học công nghệ” với chương trình Digital Talent, tuyển hàng trăm sinh viên thực tập mỗi năm và đề xuất công nhận thời gian thực tập như tín chỉ chính quy…
Tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), VNPT AI đưa nhân sự thực tập và kỹ sư trẻ trực tiếp tham gia các dự án công nghệ quy mô lớn, những “bài toán thực chiến” đòi hỏi khả năng xử lý tình huống phức tạp và triển khai trên diện rộng, giúp họ đẩy nhanh tốc độ trưởng thành trong nghề nghiệp.
Giám đốc Công nghệ VNPT AI Cao Thanh Hà cho biết, hơn 7 năm qua, từ 50 kỹ sư ban đầu, nay đơn vị có hơn 200 kỹ sư, phát triển hàng trăm mô hình AI phục vụ hàng tỷ lượt yêu cầu với chất lượng tiệm cận quốc tế. Gần đây, VNPT AI đẩy mạnh mô hình “ba nhà” - Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp để kết nối thế mạnh của mỗi bên, từ đó tạo ra năng lực đổi mới bền vững.
Ông Hà nhấn mạnh: “Chúng tôi không đi tìm quan hệ “đặt hàng-cung ứng” một chiều, mà hướng đến đồng thiết kế chương trình đào tạo, đồng phát triển sản phẩm, đồng sử dụng kết quả nghiên cứu...”.
Không chỉ phát triển công nghệ, nhiều doanh nghiệp đã chuyển hướng sang đầu tư dài hạn cho phát triển nhân lực số với những cách làm sáng tạo. Công ty cổ phần MISA triển khai đào tạo lại, nâng cao kỹ năng và đưa phần mềm doanh nghiệp vào giảng dạy tại các trường đại học. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng tìm cách giữ chân nhân tài bằng những lợi thế riêng của mình.
Thành lập với định hướng cung cấp giải pháp kỹ thuật tự động hóa, Công ty trách nhiệm hữu hạn Giải pháp Kỹ thuật Lê Dương quy tụ đội ngũ kỹ sư giàu kinh nghiệm từng tham gia các dự án FDI. Tuy nhiên, giữ chân nhân sự giỏi luôn là thách thức lớn. Giám đốc Lê Đình Tuyến chia sẻ, yếu tố quyết định không chỉ nằm ở lương thưởng, mà còn ở môi trường sáng tạo, văn hóa gắn kết và cơ hội để đội ngũ cùng phát triển các sản phẩm mang dấu ấn cá nhân.
Lối mở cho nhân lực công nghệ Việt
Một số mô hình hợp tác mới đang mở ra hướng đi triển vọng cho bài toán nhân lực số. Sự gắn kết giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp được kỳ vọng tạo thành chuỗi đổi mới bền vững, từ đào tạo trên giảng đường đến nghiên cứu, ứng dụng và thương mại hóa sản phẩm công nghệ.
Tại Việt Nam, nhiều trường đại học lớn đã ký hợp tác đào tạo với các doanh nghiệp công nghệ để thúc đẩy mô hình đào tạo, thực hành và khởi nghiệp. Mô hình “đồng nghiên cứu-đồng thương mại hóa” không chỉ giúp kết nối viện, trường và doanh nghiệp, mà còn tạo động lực cho người trẻ ở lại nghiên cứu lâu dài. Các phòng thí nghiệm sẽ được bố trí tại viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp để dùng chung.
Theo Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) Hoàng Anh Tú, đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 57 và Luật Công nghiệp công nghệ số thông qua việc đầu tư hạ tầng R&D gắn với liên kết đa chủ thể. Sự liên kết giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp đang dần hình thành trụ cột trong hệ sinh thái phát triển nhân lực số tại Việt Nam.
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh triển khai Chương trình VNU350 với cơ chế mở, trao quyền cho các nhà khoa học tự chọn hướng nghiên cứu theo thế mạnh cá nhân. Mục tiêu của VNU350 là thu hút, giữ chân và phát triển 350 nhà khoa học trẻ xuất sắc, đưa trường trở thành đại học nghiên cứu tốp đầu châu Á.
Một sáng kiến tương tự đang được hình thành với đề xuất xây dựng “tam giác đổi mới” tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc, nơi doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm sáng tạo, nhà khoa học phát triển tri thức, còn Nhà nước giữ vai trò kiến tạo thể chế, hỗ trợ hạ tầng và cơ chế, chính sách.
“Mô hình này đang được CMC, Đại học Bách khoa Hà Nội và Ban Quản lý Khu Công nghệ cao Hòa Lạc phối hợp thí điểm, kỳ vọng tạo bước chuyển mạnh mẽ trong cách vận hành hệ sinh thái nhân lực và đổi mới sáng tạo quốc gia”, Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ CMC Nguyễn Trung Chính cho biết.
Dù nhiều mô hình liên kết đã cho thấy hiệu quả bước đầu, Việt Nam vẫn đối mặt với những thách thức lớn như năng lực làm chủ công nghệ còn hạn chế, nguồn lực trí tuệ toàn cầu chưa được khai thác tối ưu.
Trước yêu cầu phát triển nhanh, các chuyên gia cho rằng cần đồng thời cải thiện môi trường nghiên cứu, tăng đầu tư cho R&D, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và mở rộng hợp tác quốc tế. Để những nỗ lực này phát huy tối đa hiệu quả, nhiều ý kiến đề xuất thí điểm “sandbox nhân lực”, cơ chế linh hoạt cho phép tuyển dụng và sử dụng chuyên gia theo dự án, giúp các nhà khoa học và kỹ sư công nghệ cao thử sức với các bài toán thực tiễn và phát huy năng lực ở mức cao nhất.
Thực tế, VNPT AI đã thiết kế riêng các vị trí chuyên gia với khung lương, KPI và chế độ làm việc linh hoạt, qua đó thu hút nhân tài và tạo điều kiện để đội ngũ tập trung phát triển sản phẩm thay vì bị ràng buộc bởi thủ tục hành chính.
Thông tin tích cực còn đến từ phía Nhà nước, đó là Bộ Khoa học và Công nghệ hiện đã chuyển sang chủ động “đặt hàng” các viện, trường, doanh nghiệp thay vì chờ đề xuất từ cơ sở nhằm bám sát nhu cầu thực tiễn và tăng hiệu quả chính sách.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Hoàng Phương khẳng định, đây là bước chuyển từ tư duy phân tán sang tiếp cận chủ động, đồng hành cùng doanh nghiệp và nhà khoa học trong định hướng nghiên cứu. Để thu hút nhân tài, cần song hành giữa đãi ngộ cạnh tranh và môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp. Trọng tâm cải cách thể chế hiện nay là chuyển từ đánh giá theo quy trình sang đo lường hiệu quả đầu ra. Bộ cũng đang xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm hỗ trợ hoạch định chính sách. Luật Công nghiệp công nghệ số là một cú huých thể chế quan trọng. Tuy nhiên, quyết định vẫn nằm ở môi trường thực thi thực chất, cơ hội phát triển rõ ràng và cơ chế sử dụng nhân tài đủ linh hoạt.
Theo các chuyên gia, chỉ khi thể chế, doanh nghiệp và nhân lực được kết nối đồng bộ, Việt Nam mới có thể kiến tạo được một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo bền vững.