Bài 2: cần tích cực tháo gỡ điểm nghẽn của điểm nghẽn
Như chúng tôi đã đề cập ở bài trước, việc đấu giá các lô đất ở Thủ Thiêm lại được dời đến cuối năm 2025 theo thông báo của đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường. Trước đó, việc đấu giá các lô đất đã được lên kế hoạch và dự kiến được thực hiện trong quý II. Điều đáng nói, trong các lô đất này có lô đã từng được đưa ra đấu giá chính thức vào tháng 11/2021 và đã được trả giá cao nhất lên tới gấp 7 lần giá khởi điểm lúc đó, nhưng cuối cùng việc giao đất đã không được thực hiện do bên trúng đấu giá bỏ cuộc và bỏ luôn tiền cọc.
Đây là một trong nhiều trường hợp chậm trễ tiến hành đấu giá đất được ghi nhận trong nhiều năm qua. Sự chậm trễ trong việc khai thác tài sản công không chỉ được ghi nhận trong lĩnh vực đất đai. Báo chí, người dân vẫn thường xuyên nhắc đến các công trình chung cư cao tầng tại phường Bình Khánh (TP.Thủ Đức) được xây dựng trong khuôn khổ dự án tái định cư đối với các hộ dân có đất bị thu hồi tại Thủ Thiêm.
Đã mười năm kể từ ngày được ấn định để đưa các công trình vào khai thác, các chung cư vẫn bị bỏ không. Chính quyền Thành phố cho phép bán gần một nửa số chung cư này, khoảng gần 3.800 căn, theo diện nhà ở thương mại. Tuy nhiên, qua 4 lần đấu giá, chưa có căn hộ nào được bán thành công. Lý do được biết là giá khởi điểm cao và chất lượng căn hộ không đáp ứng kỳ vọng của nhà đầu tư.
Một điểm ách tắc dai dẳng nữa liên quan đến tài sản công được ghi nhận trong lĩnh vực đầu tư công, đặc biệt là đầu tư xây dựng công trình giao thông công cộng trọng điểm. Đã nhiều năm, Thành phố không đạt chỉ tiêu giải ngân. Sự chậm trễ trong việc đưa vốn đầu tư vào vòng quay tất yếu dẫn đến tình trạng dự án bị chậm tiến độ. Hậu quả không chỉ là sự xáo trộn kế hoạch phát triển hạ tầng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Việc sinh hoạt, đi lại, làm ăn, mua bán của người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn trở ngại do bị cản trở bởi các công trường ngổn ngang rào chắn.
Rất nhiều lời kêu gọi, yêu cầu, mệnh lệnh đã được đưa ra từ cấp lãnh đạo cao nhất của Thành phố, thậm chí của Chính phủ, nhưng rồi các điệp khúc trì hoãn vẫn cứ lặp đi, lặp lại. Không khó để ghi nhận thiệt hại từ sự ì ạch này. Đất đai chậm được chuyển giao đến tay người sử dụng, công trình xây dựng chậm được khai thác và tất nhiên, tiền chậm đi vào ngân quỹ nhà nước, ảnh hưởng dây chuyền đến việc cấp vốn cho những dự án đầu tư công. Sự chậm trễ của các dự án đầu tư công khiến các công trình bị đội vốn; một trong những ví dụ điển hình là trường hợp đội vốn của dự án Metro số 1, lên tới gấp đôi, gấp ba. Thiệt hại mà người dân, doanh nghiệp gánh chịu do đi lại, giao tiếp gặp trở ngại thì không thể kể một cách đầy đủ.

Gần 4.000 căn hộ ở Thủ Thiêm đã được mang ra đấu giá nhiều lần nhưng không thành công
Rất nhiều cuộc họp ở quy mô khác nhau đã được tổ chức để thảo luận tìm ra các nguyên nhân của tình trạng này. Cơ chế quản lý luôn được dẫn ra như là một trong những nguyên nhân chính, thậm chí được lãnh đạo Đảng gọi là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào khắc phục, loại bỏ nguyên nhân này; phải bắt đầu từ đâu?
Chắc chắn chính các vị trí trực tiếp tác nghiệp có điều kiện tốt nhất ghi nhận những điểm nghẽn thể chế từ quá trình cọ xát với thực tiễn, quá trình xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc triển khai các dự án. Cần yêu cầu các vị trí này phải có trách nhiệm rà soát các công việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình và báo cáo với cấp trên về những vướng mắc cụ thể; phải mô tả cho rõ đó là vướng mắc gì liên quan đến khâu nào của quy trình.
Để việc phát hiện và xử lý vướng mắc được thực hiện nhanh chóng và rốt ráo, cần ấn định thời hạn để rà soát và báo cáo. Hết thời hạn đó mà báo cáo không được thực hiện hoặc đã được thực hiện nhưng vướng mắc vẫn còn, theo phản ánh của người dân, doanh nghiệp hoặc các cơ quan liên quan, thì người đảm nhận vị trí trực tiếp tác nghiệp phải chịu trách nhiệm. Có thể thay thế ngay người đảm nhận vị trí bằng một người khác.
Có thể lấy mẫu xử lý vướng mắc liên quan đến tổ chức đấu giá đất làm ví dụ minh họa. Trong điều kiện giá đất khởi điểm đã được xác định, vấn đề lựa chọn tổ chức để thực hiện đấu giá là vấn đề cốt lõi cần được giải quyết. Việc lựa chọn tổ chức đấu giá được giao cho Trung tâm pháp triển quỹ đất chủ trì thực hiện theo một quy trình được thiết lập với yêu cầu có được tổ chức đấu giá đủ khả năng tiến hành đấu giá đúng luật, trơn tru, được giá tốt nhất và với chi phí hợp lý nhất.
Để bảo đảm yêu cầu đó, luật hiện hành đòi hỏi sự tham gia của các cơ quan liên quan, như Sở Tài chính, Sở Tư pháp để cho ý kiến về các điều kiện mà tổ chức đấu giá cần thỏa mãn để ứng tuyển; luật cũng quy định việc xét tuyển phải được thực hiện theo các phương thức cho phép đạt kết quả lựa chọn thỏa mãn các tiêu chí công khai và minh bạch, bao gồm đấu thầu rộng rãi, chào hàng cạnh tranh... Trung tâm phát triển quỹ đất, với tư cách là chủ thể cầm trịch quy trình này, có thể ghi nhận những khâu nào, phần thủ tục nào thường mất nhiều thời gian, thậm chí tắc nghẽn dẫn đến sự chậm trễ trong thực hiện dự án, và có báo cáo cụ thể.
Sau khi nhận được báo cáo, cấp quản lý phải tiến hành phân tích căn cơ, cội rễ của sự chậm trễ, điểm nghẽn, chỉ ra được chính xác quy định nào, tại văn bản quy phạm nào do cấp nào ban hành là quy định tạo ra tình trạng đó. Từ việc nhận diện rõ ràng tác nhân của sự chậm trễ hoặc điểm nghẽn, cấp quản lý làm tham mưu cho lãnh đạo có thẩm quyền để sửa đổi, bãi bỏ những quy định là cơ sở pháp lý của việc duy trì điểm nghẽn đó. Tất nhiên, cũng cần ấn định một thời hạn thích hợp để cơ quan tham mưu thực hiện phân tích và gửi các kiến nghị, đề xuất cần thiết cũng như xác định rõ chế tài trong trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ.
Lấy lại ví dụ về quy trình đấu giá đất nêu trên, có thể đặt vấn đề liệu sự tham gia của Sở này hoặc Sở nọ vào việc lựa chọn tổ chức thực hiện đấu giá có thật sự cần thiết. Tương tự, đối với khâu thẩm định tính hợp lý của giá khởi điểm, có thể cân nhắc việc trao quyền tự chủ cho trung tâm phát triển quỹ đất: là tổ chức được thừa nhận có đầy đủ tư cách pháp nhân và hoạt động như một doanh nghiệp, trung tâm chỉ cần bảo đảm tính hiệu quả của việc "kinh doanh" đất và được quyền quyết định biện pháp kinh doanh cụ thể.
Trong điều kiện đã có Nghị quyết 98 cho phép thực hiện thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TPHCM, chắc chắn lãnh đạo Thành phố có điều kiện tự mình ra quyết định xử lý tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế theo sự phân cấp tại Nghị quyết đó. Đối với những vướng mắc vượt quá thẩm quyền, lãnh đạo Thành phố cần nhanh chóng kiến nghị với chính quyền Trung ương để xử lý.
Trong điều kiện sự phát triển của Thành phố tạo tiền đề cho sự phát triển chung của cả nước, chắc chắn cấp có thẩm quyền phải coi tháo gỡ vướng mắc là việc ưu tiên phải làm. Một khi tất cả các vị trí trong hệ thống đều tích cực vào cuộc theo đúng thẩm quyền và chức trách, thì không lý do gì các điểm nghẽn không được tháo gỡ để các dự án không còn bị chậm trễ gây ách tắc lưu thông các nguồn lực và làm nản lòng nhà đầu tư.