Luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo cần cơ chế kiểm soát lạm quyền
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, các nội dung trong dự thảo cơ bản đã được xây dựng một cách đầy đủ và rõ ràng trên cơ sở thực tiễn triển khai thí điểm Nghị quyết 42.
Sáng ngày 10/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Thị Hồng đã trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại các phiên thảo luận tổ và hội trường. Cùng với đó là báo cáo thẩm tra chính thức của Ủy ban Kinh tế và Tài chính về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
Liên quan đến nhóm chính sách luật hóa các quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14, Thống đốc cho biết các đại biểu đặc biệt quan tâm đến ba vấn đề lớn xoay quanh việc thu giữ tài sản bảo đảm, bao gồm điều kiện thu giữ, sự tham gia của chính quyền địa phương và cơ chế kiểm soát nhằm ngăn chặn tình trạng lạm quyền.
Về điều kiện thu giữ, Thống đốc khẳng định đây không phải là hành vi đơn phương hay vô điều kiện. Hoạt động này cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về phạm vi, giới hạn và điều kiện thu giữ, đồng thời phải tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận giữa các bên.
Trình tự và thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm cần được quy định một cách công bằng, công khai và minh bạch, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ, tổ chức tín dụng cũng như các bên liên quan.
Đối với vai trò của chính quyền địa phương, Thống đốc nhấn mạnh đây là lực lượng có chức năng xác nhận tình trạng thực tế và giữ gìn an ninh trật tự tại hiện trường khi tổ chức tín dụng tiến hành thu giữ tài sản.
Sự tham gia này không chỉ giúp ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực của tổ chức tín dụng mà còn đảm bảo quá trình thu giữ diễn ra công khai, minh bạch, không gây mất trật tự xã hội và không xâm phạm quyền lợi của các chủ thể có liên quan.
Việc đưa vào quy định vai trò của Ủy ban Nhân dân cấp xã và cơ quan công an cấp xã trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm sẽ tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, nâng cao ý thức tuân thủ của tổ chức tín dụng, bên bảo đảm, bên vay cũng như người dân tại nơi diễn ra hoạt động thu giữ.
Liên quan đến cơ chế kiểm soát để tránh tình trạng lạm quyền, dự thảo luật đã đưa ra quy định rõ ràng rằng tổ chức tín dụng không được phép sử dụng các biện pháp trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, đồng thời không được hạn chế quyền khiếu nại của các bên liên quan, đặc biệt là bên bảo đảm và bên đang giữ tài sản bảo đảm.
Các hoạt động thu giữ cũng như toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng đều phải chịu sự quản lý, kiểm tra, thanh tra và giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Ngân hàng Nhà nước.
Đối với các quy định liên quan đến việc kê biên tài sản của bên thi hành án là tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu, cũng như quy định hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong các vụ án hình sự, tang vật hoặc phương tiện vi phạm hành chính, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết Chính phủ đã tiến hành rà soát để đảm bảo sự thống nhất giữa dự thảo luật và các luật hiện hành như Luật Tố tụng Hình sự, Luật Thi hành án Dân sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Những nội dung được bổ sung trong dự thảo luật nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc xử lý nợ xấu, đồng thời giải quyết các vấn đề thực tiễn đang còn khoảng trống hoặc chưa có quy định cụ thể.
Các nội dung này cũng phù hợp với các dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và Luật Tố tụng Hình sự.
Dự thảo luật cũng đưa vào quy định cụ thể về cách thức xử lý tài sản bảo đảm và thanh toán số tiền thu được từ việc xử lý đó, đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Về mặt kỹ thuật, Chính phủ đã hoàn thiện và chỉnh sửa Điều 198b theo hướng tách thành ba khoản riêng biệt để tăng tính rõ ràng và cụ thể.
Thống đốc cho biết các nội dung trong dự thảo cơ bản đã được xây dựng một cách đầy đủ, cụ thể và rõ ràng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn triển khai thí điểm Nghị quyết số 42 từ ngày 15/8/2017 đến 31/12/2023.
Những điểm còn vướng mắc hoặc chưa hoàn thiện trong giai đoạn thí điểm đã được xem xét, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý. Tuy nhiên, tiếp thu thêm ý kiến của các đại biểu, Chính phủ đã chỉ đạo cơ quan chủ trì tiếp tục rà soát.
Trong trường hợp cần thiết, cơ quan này sẽ ban hành văn bản hướng dẫn theo thẩm quyền, hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 14 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà không cần đưa quy định cụ thể vào dự thảo luật.
Về hiệu lực thi hành, Thống đốc dẫn khoản 1 Điều 53 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025, theo đó trong trường hợp đặc biệt, văn bản được xây dựng và ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn có thể có hiệu lực ngay từ ngày được thông qua hoặc ký ban hành.
Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của cơ quan thẩm tra, dự thảo luật đã điều chỉnh Điều 3 theo hướng thống nhất thời điểm có hiệu lực là sau 45 ngày kể từ ngày thông qua, cụ thể là từ ngày 1/8/2025.