'Áp lực thi cử khiến nhiều giáo viên muốn đổi mới vẫn phải quay lại luyện đề'
Theo các chuyên gia, một trong những thách thức giáo viên ngoại ngữ phải đối mặt là áp lực thi cử nặng về kiến thức ngôn ngữ. Điều này khiến nhiều giáo viên, dù hiểu định hướng đổi mới, vẫn quay lại cách dạy luyện đề để đảm bảo kết quả cho học sinh.
Xu hướng học tập thay đổi, giáo viên không thể đứng yên
Chia sẻ với VietNamNet về những khó khăn giáo viên ngoại ngữ đang phải đối mặt, TS Trần Thị Lan Anh, Phó trưởng khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh (Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội), cho hay thách thức lớn nhất với giáo viên ngoại ngữ hiện nay là sự thay đổi mạnh mẽ trong hành vi và động lực học tập của người học.
Người học giờ đây có thể tiếp cận ngoại ngữ thông qua nhiều kênh, từ nền tảng học trực tuyến đến các công cụ trí tuệ nhân tạo. Điều này giúp mở rộng cơ hội học tập nhưng cũng kéo theo nguy cơ sao nhãng, giảm khả năng học sâu và suy giảm động lực nội tại.
Trong bối cảnh đó, theo TS Lan Anh, giáo viên buộc phải điều chỉnh cách tiếp cận, phương pháp và kỹ thuật giảng dạy cho phù hợp với người học mới.
“Vai trò của giáo viên giờ đây không còn đơn thuần là người truyền thụ kiến thức mà trở thành người hỗ trợ, hướng dẫn và đồng hành cùng quá trình học tập ngoại ngữ của người học”, TS Trần Thị Lan Anh nhấn mạnh.
Trong khi đó, theo TS Nguyễn Thị Thu Hằng, giảng viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh, giáo viên ngoại ngữ hiện nay được kỳ vọng đáp ứng đồng thời nhiều yêu cầu như sử dụng ngoại ngữ thành thạo, nắm vững phương pháp giảng dạy hiện đại, ứng dụng công nghệ, thiết kế đánh giá theo chuẩn đầu ra, thậm chí triển khai dạy học tích hợp nội dung.
Tuy nhiên, không phải môi trường giáo dục nào cũng có đủ điều kiện để giáo viên hiện thực hóa những yêu cầu này.
Bên cạnh đó, áp lực thi cử vẫn nặng về kiến thức ngôn ngữ khiến nhiều giáo viên, dù hiểu rõ định hướng đổi mới, vẫn phải quay lại cách dạy luyện đề để đảm bảo kết quả cho học sinh.

Áp lực thi cử nặng nề khiến nhiều giáo viên muốn đổi mới vẫn phải quay lại luyện đề. Ảnh: Thúy Nga
Các chuyên gia đều nhìn nhận, trong những năm gần đây, cả năng lực ngoại ngữ và sư phạm của giáo viên Việt Nam đều có những bước tiến rõ rệt, trình độ ngoại ngữ được cải thiện nhờ các kỳ thi chuẩn hóa và các chương trình bồi dưỡng dài hạn. Ngoài ra, giáo viên cũng đã có sự chuyển dịch từ dạy học truyền thụ sang tiếp cận phát triển năng lực, tăng cường hoạt động học tập, ứng dụng công nghệ và đánh giá thường xuyên.
Tuy nhiên, trong bối cảnh giáo dục ngoại ngữ đang thay đổi nhanh chóng với yêu cầu dạy học tích hợp, cá thể hóa, ứng dụng AI và gắn ngôn ngữ với giao tiếp thực tiễn, “nút thắt” lớn hơn lại nằm ở tốc độ thích ứng sư phạm.
“Giáo viên hiểu rằng cần đổi mới, nhưng đổi mới như thế nào, ở mức độ nào và làm sao để vận dụng hiệu quả trong điều kiện lớp học đông, trình độ học sinh chênh lệch, áp lực thi cử lớn thì không phải ai cũng có câu trả lời ngay lập tức”, TS Thu Hằng nói.
Cần triển khai đào tạo theo khung năng lực dành cho giáo viên ngoại ngữ
Để tháo gỡ những khó khăn này, theo TS Thu Hằng, việc triển khai đào tạo và bồi dưỡng giáo viên theo khung năng lực dành riêng cho giáo viên ngoại ngữ Việt Nam là cần thiết.
Khung năng lực này không chỉ giúp định hướng thiết kế các chương trình bồi dưỡng, tránh tình trạng dàn trải mà còn cho phép xây dựng lộ trình phát triển nghề nghiệp theo từng mức độ cụ thể. Quan trọng hơn, đây sẽ là chuẩn tham chiếu để đánh giá hiệu quả bồi dưỡng thay vì chỉ ghi nhận số lượng giờ bồi dưỡng chuyên môn giáo viên đã tham gia.
Theo TS Dương Thu Mai, giảng viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh (Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội), trong các năng lực của giáo viên ngoại ngữ, năng lực kiểm tra, đánh giá vẫn chưa được chú trọng, dù trên thực tế giáo viên dành phần lớn thời gian cho công việc này, từ đánh giá thường xuyên, định kỳ đến thiết kế kế hoạch và phản hồi kết quả.
“Lĩnh vực đánh giá ngoại ngữ ở Việt Nam phát triển nhanh với nhiều xu hướng và yêu cầu mới, khiến không ít giáo viên lúng túng. Nhiều người chưa biết phải bắt đầu từ đâu, nên họ sử dụng một bài kiểm tra tìm thấy trên Internet mà chưa xem xét kỹ mức độ phù hợp. Ngoài ra, họ cũng gặp khó khăn khi có mục tiêu kép là đánh giá nội dung đã giảng dạy và chuẩn bị cho các kỳ thi cuối cấp quan trọng”, TS Dương Thu Mai nói.
Theo TS Mai, việc đánh giá năng lực giao tiếp ngoại ngữ của học sinh cần được giáo viên thực hiện một cách chuyên nghiệp, có hệ thống.
Ví dụ, khi đánh giá định kỳ học sinh lớp 9, giáo viên cần dựa trên chuẩn đầu ra theo chương trình giáo dục phổ thông, sách giáo khoa và đặc điểm lớp học để xác định rõ các mục tiêu cụ thể về nghe, nói, đọc, viết cho từng giai đoạn. Từ đó, giáo viên thiết kế ma trận đánh giá, câu hỏi liên quan tới mục tiêu, từng bước thu thập minh chứng và kết luận về năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ của học sinh.
Đồng quan điểm, TS Trần Thị Lan Anh cho rằng một trong những năng lực quan trọng của giáo viên khi dạy ngoại ngữ là năng lực đánh giá thường xuyên, linh hoạt. Thực tế với những lớp học đông, giáo viên khó theo dõi từng em. Vì thế, giáo viên cần biết cách đánh giá linh hoạt giúp nhận diện nhanh mức độ hiểu bài của học sinh.
Trong đó, một số năng lực cụ thể về đánh giá thường xuyên là quan sát, đặt câu hỏi trực tiếp, thiết kế bài kiểm tra nhanh để phân nhóm và điều chỉnh tiến độ, thiết kế thang đo đơn giản, ghi chép để theo dõi học sinh sát sao…
Để trả lời câu hỏi “Giáo viên ngoại ngữ Việt Nam cần biết gì và làm được gì trong thế kỷ 21”, nhóm tác giả gồm TS Diana Dudzik (Mỹ) cùng các giảng viên Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội đã thực hiện bộ sách chuyên khảo “Vietnam’s Foreign Language Teacher Competencies in Practice”.
Bộ sách cụ thể hóa các tiêu chuẩn, tiêu chí trong Khung năng lực giáo viên ngoại ngữ do Bộ GD-ĐT ban hành năm 2020, với cách tiếp cận “dạy học thích ứng”. Theo đó, năng lực giáo viên không phải là những tiêu chí bất biến mà là một quá trình phát triển liên tục, gắn chặt với thực tiễn lớp học và bối cảnh giáo dục không ngừng thay đổi.































