70 năm tập kết ra Bắc - sáng mãi ngọn lửa đoàn kết dân tộc
Sự kiện đưa cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc là một quyết định mang tầm chiến lược, đây không chỉ là đợt chuyển quân thông thường mà còn là chủ trương, chính sách về quản lý, đãi ngộ, sử dụng và bồi dưỡng - đào tạo đội ngũ cán bộ, chiến sĩ vừa góp phần cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Mùa Thu năm 1954, hàng vạn cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc. Đây không chỉ là một quyết sách mang tính chiến lược, mà còn là một minh chứng tiêu biểu cho tầm nhìn xa và sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn đầy biến động của lịch sử Việt Nam.
Quyết định này đã tạo nền tảng vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của sự thống nhất trong tư duy lãnh đạo và chiến lược hành động của Đảng. Theo Hiệp định Geneva, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tạm thời do quân đội Liên hiệp Pháp và ngụy quyền quản lý, hai năm sau sẽ Hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Ngay sau Hội nghị Geneve kết thúc, ngày 22/7/1954, từ chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi đồng bào, cán bộ, chiến sỹ ra sức củng cố nền hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Trong đó có đoạn: “Để thực hiện hòa bình, bước đầu tiên là quân đội hai bên phải ngừng bắn. Để ngừng bắn, thì cần phải tách quân đội hai bên ra hai vùng khác nhau: tức là điều chỉnh khu vực. Điều chỉnh khu vực là việc tạm thời, là bước quá độ để thực hiện đình chiến, lập lại hòa bình và tiến đến thống nhất nước nhà bằng cách tổng tuyển cử. Điều chỉnh khu vực quyết không phải là chia xẻ đất nước ta, quyết không phải là phân trị."
Trong khi đình chiến, quân đội ta tập trung vào miền Bắc, quân đội Pháp tập trung vào miền Nam, nghĩa là có sự đổi vùng. Một số địa phương trước kia là vùng Pháp chiếm, nay thành vùng giải phóng của ta. Ngược lại, một số vùng giải phóng cũ của ta, nay sẽ là nơi Pháp tạm đóng quân trước khi rút về Pháp. Đó là một việc cần thiết. Nhưng Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng.”
Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rằng, việc giữ vững căn cứ địa miền Bắc là điều kiện tiên quyết để tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Miền Bắc sẽ là hậu phương vững chắc, vừa bảo vệ thành quả của cách mạng, vừa là nơi tập trung lực lượng để chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh tiếp theo.
Do đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một quyết định đúng đắn, kịp thời là đưa con em cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc nhằm đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn bị một lực lượng quan trọng cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ ngày 26/8/1954, các con tàu vận tải bắt đầu đưa những đoàn cán bộ chiến sỹ tập kết của Nam Bộ ra miền Bắc. Từ ngày 25/9/1954 đến ngày 1/5/1955, nhân dân Sầm Sơn đã đón tiếp 1.869 thương, bệnh binh; 47.346 cán bộ; 5.992 học sinh và 1.443 gia đình cán bộ, chiến sỹ miền Nam tập kết ra Bắc.
Ðến ngày 8/2/1955, chuyến tàu cuối cùng chuyển quân ở Nam Bộ khu vực Cà Mau ra đến miền Bắc. Ðến đây, việc tập kết chuyển quân ở chiến trường Nam Bộ được hoàn tất.
Trong hàng ngũ bộ đội đã ra tập kết, có các đơn vị đã chiến đấu trong suốt 9 năm ở miền Ðông và Tây, ở Ðồng Tháp Mười hoặc dọc sông Cửu Long; các chiến sỹ du kích đã từng lăn lộn sau lưng địch trong vùng ngoại ô Sài Gòn - Chợ Lớn hay ở ngay trong các đô thị; các đơn vị đã từng giữ vững các vùng độc lập của miền Nam; những đơn vị thuộc trên 10 dân tộc ở Tây Nguyên; những đơn vị tình nguyện đã từng chiến thắng trên chiến trường Lào và Campuchia…
Như vậy, nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội và cán bộ đã hoàn thành việc tập kết một cách kỷ luật và nhanh chóng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong báo cáo trước Quốc hội khóa I vào năm 1955, đã nhấn mạnh: “Với một sự cố gắng rất lớn của quân đội, với sự ủng hộ tích cực và thắm thiết của nhân dân, với sự giúp đỡ anh em của các nước bạn Liên Xô, Ba Lan trong việc vận chuyển, chúng ta đã thực hiện các việc nói trên đúng thời hạn hoặc sớm hơn thời hạn đã định… trên 7 vạn quân ta và một số anh em cán bộ và đồng bào ta ở miền Nam đã an toàn chuyển ra miền Bắc.”
Với tinh thần “đi vinh quang, ở anh dũng,” người đi quyết tâm xây dựng miền Bắc vững mạnh, củng cố thành trì kiên cố cho cách mạng miền Nam. Người ở lại giữ trọn lời thề son sắt thủy chung, quyết đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cùng hẹn ước hai năm đoàn tụ. Khát vọng thống nhất đất nước đã giúp tất cả thêm mạnh mẽ, can trường, dẫu trước mắt là xa nhau và biết bao gian khó còn trùng trùng vây bủa.
Tuy nhiên, trong Hiệp định Genene quy định thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam vào tháng 7/1956 nên toàn thể nhân dân miền Nam tập kết ra Bắc đều tin rằng sau hai năm ra Bắc tập kết sẽ trở về. Nhưng không ngờ đến tận 21 năm sau điều này mới trở thành hiện thực…
Quá trình tập kết ra Bắc là một sự kiện quân sự mang tầm chiến lược đối với cả hai miền Nam - Bắc, bởi đây chính là một bước chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài, nhằm tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân miền Nam đã chấp hành tuyệt đối sự phân công, điều động của tổ chức với tinh thần “Đi hay ở đều là nhiệm vụ”. Còn nhân dân miền Bắc đã chuẩn bị chu đáo những điều kiện tốt nhất để đón tiếp tận tình cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam. Họ không chỉ xem đây là nhiệm vụ, mà còn coi việc đón tiếp này như đón người thân, anh em ruột thịt của mình.
Về vai trò của Đảng ta, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quyết định mang tính chiến lược, không chỉ về việc tập kết quân đội mà còn về cách thức quản lý, sử dụng, và bồi dưỡng lực lượng. Đây không chỉ là cuộc di chuyển để bảo đảm tuân thủ Hiệp định Geneve mà còn là kế hoạch dài hạn trong việc đào tạo một thế hệ cán bộ cho cách mạng. Những người ra Bắc đã tiếp tục học tập, rèn luyện để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất đất nước sau này.
Kết quả của sự kiện tập kết ra Bắc đã trở thành nền tảng quan trọng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Những cán bộ, chiến sỹ, học sinh, các gia đình miền Nam tập kết ra Bắc đã có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhiều người đã trở thành cán bộ, lãnh đạo các cấp, các tướng lĩnh, sỹ quan cao cấp, các nhà khoa học đầu ngành ở nhiều lĩnh vực… góp phần làm rạng danh quê hương, đất nước, như: Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Giáo sư, Tiến sỹ, Thầy thuốc nhân dân, Anh hùng lao động Huỳnh Phương Liên; Anh hùng lao động Thái Phụng Nê, người được Chính phủ Pháp tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh, người trực tiếp đặt nền móng và xây dựng thủy điện Hòa Bình và tham gia vào nhiều công trình thủy điện khác như Sơn La, Lai Châu, Sêrêpôk; Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Nhà giáo nhân dân, Trần Đình Long - người đặt nền móng cho công trình tải điện siêu cao áp 500Kv Bắc Nam...
Trải qua 70 năm, những giá trị lịch sử, bài học từ sự kiện này vẫn còn nguyên giá trị, là nền tảng cho các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Phát huy tinh thần của sự kiện Tập kết ra Bắc, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và toàn thể nhân dân tiếp tục đoàn kết thống nhất, đồng sức, đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đưa đất nước phát triển trong kỳ nguyên mới.