Khơi thông chính sách, thu hút nhân tài về nước - Bài cuối: 3 giải pháp lớn!
Nhiều nhà khoa học, chuyên gia trở về hoặc đến Việt Nam không chỉ là lựa chọn nghề nghiệp mà họ mong muốn cống hiến và cảm nhận được 'tôi thuộc về nơi này'.
Thời điểm hiện nay được nhiều chuyên gia đánh giá là “cơ hội chưa từng có” để Việt Nam thu hút nhân tài là thức Việt kiều và chuyên gia quốc tế. Các chủ trương từ Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết 57/2024 xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính để Việt Nam vươn lên.
Thế nhưng, để cạnh tranh với thế giới về giữ chân chất xám, Việt Nam cần một chiến lược dài hơi và đột phá để nhân tài không chỉ đến mà còn ở lại, cống hiến và tạo dấu ấn.
Cần tạo niềm tin “tôi thuộc về nơi này”
Tiếp xúc và làm việc nhiều với các nhà khoa học Việt kiều và chuyên gia quốc tế, Thạc sĩ Trần Thị Tố Uyên, Phó trưởng ban Ban Tổ chức Cán bộ (ĐH Quốc gia TP.HCM), nhận thấy họ thường không đặt ưu tiên cao nhất vào thu nhập.
“Điều họ thực sự mong muốn chính là một hệ sinh thái học thuật nghiêm túc, minh bạch và truyền cảm hứng. Đó phải là nơi họ được thừa nhận đúng năng lực, được tự do sáng tạo và có cơ hội đóng góp vào những vấn đề lớn của đất nước” – Thạc sĩ Uyên cho hay.
Theo bà Uyên, nhiều nhà khoa học trở về không chỉ là lựa chọn nghề nghiệp mà còn mang giá trị: Muốn cống hiến, muốn thấy công trình của mình có ích cho xã hội, muốn chứng kiến thế hệ học trò trưởng thành và tiếp nối con đường học thuật. Nhưng để nuôi dưỡng tinh thần ấy, môi trường làm việc phải đủ nhân văn, đủ khích lệ và mang lại niềm tin “tôi thuộc về nơi này”– một nơi mà ở đó tiếng nói học thuật được lắng nghe, sáng tạo được khuyến khích và đóng góp được ghi nhận.
Ở góc độ là một trong những chuyên gia đầu ngành về kỹ thuật y sinh tại Việt Nam, GS.TS Võ Văn Tới cho rằng việc thu hút mới chỉ là bước đầu, quan trọng hơn là giữ chân họ để xây dựng nền tảng, tạo “vườn ươm” cho lớp trẻ kế thừa.

Nhiều nhà khoa học mong muốn có một hệ sinh thái học thuật nghiêm túc, minh bạch và truyền cảm hứng. (Trong ảnh: Chuyên gia làm việc tại ĐH Kinh tế TP.HCM. Ảnh: TK)
GS Tới nhấn mạnh, thu hút chuyên gia nước ngoài không nên chỉ để giúp tăng số lượng công bố khoa học trên các tạp chí mà là tăng sản xuất công nghiệp tạo ra sản phẩm có thể cạnh tranh trên thương trường.
“Một số lãnh đạo “chê” công nghệ thấp nên không thèm làm còn công nghệ cao thì với không tới, do đó chúng ta vẫn phải tiếp tục mua sản phẩm nước ngoài, từ những sản phẩm thông dụng, tầm thường nhất. Do đó, tôi cho rằng chúng ta phải bắt đầu từ những việc nhỏ mới mong làm được việc lớn. Và môi trường hàn lâm là nơi lý tưởng để làm được việc này” – GS Tới thẳng thắn.
Theo GS Tới, đa số nhà khoa học Việt kiều chỉ cần một môi trường làm việc thoải mái để cống hiến, chứ không mong những lời hứa “có cánh”. Còn với chuyên gia quốc tế, họ mong muốn khám phá ra cái gì đặc thù mà chỉ ở Việt Nam mới có. Họ đã giúp chúng ta tìm ra động Sơn Đoòng, con Sao la, … Vì vậy, để họ gắn bó lâu dài, Việt Nam cần có một đội ngũ tại chỗ, đủ năng lực hỗ trợ họ và tiếp nối con đường họ đã tìm ra.
3 giải pháp then chốt
Từ kinh nghiệm thực tiễn, các chuyên gia cho rằng cần nhiều giải pháp then chốt để chính sách thu hút nhân tài thực sự tạo đột phá.
Trong đó, giải pháp cấp bách hàng đầu là phải cắt giảm rào cản thủ tục và xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng . PGS.TS Bùi Quang Hùng, Phó giám đốc ĐH Kinh tế TP.HCM, cho rằng cần tinh gọn quy trình gia hạn giấy phép lao động cho người nước ngoài.
“Không nên lặp lại các bước xác nhận nhu cầu tuyển dụng hay chứng minh không tìm được lao động trong nước, nhất là với những giảng viên, chuyên gia đã làm việc ổn định và có đóng góp tích cực”- PGS.TS Bùi Quang Hùng cho biết.
Ông cũng nhấn mạnh phải đẩy mạnh số hóa hồ sơ, đăng ký trực tuyến và thậm chí xem xét miễn giấy phép lao động cho chuyên gia quốc tế ở các ĐH trọng điểm. Bên cạnh đó, thời hạn giấy phép lao động ở các lần gia hạn sau nên cấp dài hạn hơn để chuyên gia yên tâm gắn bó.

Một giờ thực hành của thầy trò tại ĐH Quốc gia TP.HCM. Ảnh: T.THÔNG
Nhóm giải pháp thứ hai liên quan đến tài chính và đãi ngộ. PGS.TS Đỗ Văn Dũng, Phó Chủ tịch Hội Ô tô - Máy động lực TP.HCM nhìn nhận những chính sách hiện nay như Nghị quyết 57, Nghị định 179/2024, Nghị định 249/2025… tạo điều kiện tài chính và môi trường làm việc hấp dẫn hơn cho chuyên gia. Tuy nhiên, ông cho rằng mức lương và thu nhập chưa đủ sức cạnh tranh quốc tế trong khi mong muốn của họ có sự kết hợp giữa lợi ích cá nhân, cơ hội đóng góp và một môi trường hỗ trợ.
Do đó, PGS.TS Dũng đề xuất cần xây dựng chính sách đãi ngộ cạnh tranh, linh hoạt; xem xét miễn thuế thu nhập cá nhân 5–7 năm đầu cho chuyên gia về nước. Đồng thời có thể triển khai các chương trình hợp tác ngắn hạn 3–6 tháng để chuyên gia thử nghiệm làm việc tại Việt Nam trước khi gắn bó dài hạn.
Về vấn đề này, TS Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường ĐH FPT cũng cho rằng muốn thu hút được nhân tài thì phải đầu tư. Nhà nước có thể xem xét cơ chế hỗ trợ một phần chi phí cho cơ sở giáo dục trong việc sử dụng chuyên gia nước ngoài, chẳng hạn chi 30 – 50% kinh phí, phần còn lại do trường chủ động.
Giải pháp then chốt thứ ba là tổ chức nhân sự, môi trường học thuật và niềm tin để giữ chân nhân tài. PGS.TS Nguyễn Thiện Tống, Trưởng ngành Kỹ thuật Hàng không (Trường ĐH Văn Lang), cho rằng chính sách thu hút nhân tài ở nước ngoài phải đi đôi với việc sử dụng nhân tài trong nước. Nếu trong nước biết trọng dụng người giỏi, trao cơ hội cống hiến và thăng tiến xứng đáng, thì những người ở ngoài sẽ tin tưởng mà trở về. Thực tế có những trường hợp Việt kiều có chuyên môn giỏi nhưng không được giao trọng trách, dẫn đến lãng phí và nản lòng.
Ông nhấn mạnh việc cần thay đổi cách tổ chức nhân sự, chú trọng năng lực chuyên môn thay vì đặt nặng điều kiện hình thức. “Gần đây, sự ra đời các mạng lưới kết nối chuyên gia trong và ngoài nước là tín hiệu tích cực, khuyến khích trí thức Việt Nam trở về đóng góp. Quan trọng nhất là phải có môi trường công bằng, tôn trọng, trao trách nhiệm tương xứng để nhân tài – dù ở trong hay ngoài nước – đều được phát huy hết khả năng”– PGS.TS Tống nói.

Thống kê sơ bộ từ Bộ GD&ĐT thông qua báo cáo từ các cơ sở đào tạo. Đồ họa: P.ANH
5 cơ chế đặc thù thu hút trí thức Việt kiều và quốc tế
Trong tháng 9-2025, Chính phủ ban hành Nghị định 249/2025 quy định cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Trong đó có 5 chính sách đáng chú ý, kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá trong thu hút nhân tài trên thị trường nhân lực toàn cầu, cụ thể:
- Tiêu chí tuyển chọn linh hoạt: Ngoài học vị tiến sĩ từ các trường tốp 200 thế giới hoặc kinh nghiệm nghiên cứu quốc tế, chuyên gia còn có thể được lựa chọn nếu có sáng chế, công trình ứng dụng thực tiễn, hoặc thành tích nghiên cứu nổi bật.
- Trao quyền rộng cho chuyên gia: Được quyết định kỹ thuật, công nghệ trong nhiệm vụ; chủ động sử dụng kinh phí, nhân lực; tiếp cận nguồn lực nghiên cứu và hợp tác quốc tế.
- Đãi ngộ toàn diện: Lương, thưởng theo thỏa thuận, cộng thêm hỗ trợ nhà ở, phương tiện, vé máy bay cho cả gia đình, chăm sóc y tế, học phí cho con, nghỉ dưỡng hằng năm. Gia đình chuyên gia được cấp thẻ tạm trú và hưởng chính sách việc làm, học tập tại Việt Nam.
- Cơ hội phát triển lâu dài: Chuyên gia có thể được xem xét nhập quốc tịch Việt Nam hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý mà không bị ràng buộc chặt về tuổi tác, quy hoạch hay lý luận chính trị.
- Khuyến khích đơn vị đề cử: Cơ quan, tổ chức mời chuyên gia cũng được thưởng nếu chuyên gia hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Bộ GD&ĐT đề xuất giảm thủ tục mời gọi chuyên gia
Bộ GD&ĐT vừa công bố dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tạo đột phá trong giáo dục và đào tạo để lấy ý kiến và sẽ được trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp cuối năm 2025.
Điểm nhấn trong đó là hai nội dung đáng chú ý. Thứ nhất, trong thời gian 5 năm, chuyên gia, nhà khoa học quốc tế có trình độ tiến sĩ sang Việt Nam quản lý, giảng dạy, nghiên cứu tại cơ sở giáo dục ĐH, giáo dục nghề nghiệp sẽ được miễn thị thực và giấy phép lao động.
Thứ hai, một số trường ĐH trọng điểm được quyền tự xác nhận trường hợp chuyên gia nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Việc xác nhận này sẽ thay thế thủ tục hiện nay phải xin thêm tại cơ quan có thẩm quyền địa phương. Các cơ sở giáo dục ĐH chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của văn bằng, chứng chỉ và điều kiện làm việc của chuyên gia theo quy định.
Ông NGUYỄN TIẾN DŨNG, Phó Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ GD&ĐT):
Dự kiến đến năm 2030, Việt Nam thu hút 10.000 chuyên gia, nhà khoa học từ nước ngoài về
Bộ GD&ĐT đang dự thảo lần 1 Đề án xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc ở các cơ sở giáo dục Việt Nam. Dự thảo đề ra mục tiêu đến năm 2030 sẽ thu hút 10.000 chuyên gia, nhà khoa học ở nước ngoài về Việt Nam. Dự thảo cũng đưa ra ba nhóm giải pháp lớn: chính sách đãi ngộ; cơ chế làm việc và thủ tục hành chính; Kết nối và hỗ trợ cộng đồng.
Bộ cũng sẽ xem xét việc phân cấp, trao quyền nhiều hơn cho các trường và địa phương trong tuyển dụng, hợp tác.
Cùng với đó, Bộ GD&ĐT cũng đang xây dựng nghị định về sử dụng người nước ngoài làm việc trong các cơ sở giáo dục, bao gồm hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và trao đổi học thuật.
Hai văn bản này dự kiến sẽ được trình trong năm 2025, chậm nhất vào tháng 12 nhằm thuận lợi tại các cơ sở giáo dục thu hút chuyên gia, nhà khoa học quốc tế.
GS.TS VÕ VĂN TỚI, nguyên Trưởng bộ môn Kỹ thuật Y sinh, Trường ĐH Quốc tế (ĐH Quốc gia TP.HCM):
Tạo “ốc đảo thành công” làm nam châm hút nhân tài
Để các chủ trương thu hút nhà khoa học, chuyên gia từ nước ngoài về Việt Nam tạo được đột phá là một vấn đề phức tạp. Ngay cả khi có thay đổi toàn diện nhưng thiếu nhất quán thì khó đạt kỳ vọng. Quan trọng là phải tạo ra những ‘ốc đảo thành công’ để trở thành thỏi nam châm tự nhiên hút nhân tài. Với sự tinh giản hành chính và quyết liệt từ lãnh đạo, tôi tin lần này việc thu hút trí thức và chuyên gia quốc tế sẽ hiệu quả hơn.
PGS.TS NGUYỄN THIỆN TỐNG, Trưởng ngành Kỹ thuật Hàng không, Trường ĐH Văn Lang:
Tăng cường hợp tác với giáo sư, chuyên gia đã nghỉ hưu
Cần tăng cường hợp tác với đội ngũ giáo sư, chuyên gia người Việt ở nước ngoài và học giả quốc tế đã nghỉ hưu nhưng vẫn còn năng lực làm việc, uy tín quốc tế và mong muốn cống hiến. Các trường ĐH có thể triển khai cơ chế đồng giảng dạy, đồng hướng dẫn cùng giảng viên trong nước, kể cả hình thức trực tuyến để tiết kiệm chi phí mà vẫn nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo sau ĐH. Để làm được, Nhà nước cũng cần có cơ chế, hỗ trợ tài chính, tạo thuận lợi về thủ tục visa, hành chính và đãi ngộ, còn các trường phải chủ động xây dựng mạng lưới kết nối.
Thạc sĩ TRẦN THỊ TỐ UYÊN, Phó trưởng ban Ban Tổ chức Cán bộ (ĐH Quốc gia TP.HCM):
Cần có quỹ đầu tư chiến lược cho nhân tài
Trong bối cảnh cạnh tranh nhân lực toàn cầu, hệ thống pháp luật cần đủ linh hoạt để cho phép tuyển dụng nhanh, công nhận học hàm/học vị theo chuẩn quốc tế. Đồng thời, Nhà nước cần thí điểm cơ chế tự chủ sâu ở những đơn vị trọng điểm như ĐH Quốc gia, trung tâm nghiên cứu quốc gia.
Nhà nước nên có quỹ đầu tư chiến lược cho nhân tài, tách biệt với ngân sách chi thường xuyên. Các khoản hỗ trợ có thể tập trung vào: Học bổng tiến sĩ, sau tiến sĩ cho người Việt học ở nước ngoài; gói tài trợ tái định cư và đầu tư ban đầu cho nhóm nghiên cứu mới; chính sách tài chính theo đặt hàng để thu hút chuyên gia Việt kiều và quốc tế làm việc lâu dài tại Việt Nam.
Góc nhìn:
Thu hút nhân tài phải từ những hành động và cam kết cụ thể
Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu các bộ, ngành xây dựng chính sách đãi ngộ đặc biệt để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc. Chỉ đạo này không chỉ mang ý nghĩa định hướng chính sách, mà còn là một lời nhắc thẳng thắn về trách nhiệm của từng cơ quan, từng người làm công tác thu hút, trọng dụng nhân tài.
Việt Nam không thiếu người tài, cũng không thiếu những trí thức gốc Việt khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Thực tế, suốt những năm qua, nhiều nhà khoa học, chuyên gia đã trở về, đang âm thầm cống hiến trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Đa phần họ là những người trở về từ niềm tin — tin vào giá trị đóng góp, vào cơ hội phát triển đất nước, dù môi trường làm việc trong nước còn nhiều bất cập.
Nhưng bên cạnh những trường hợp thành công ấy là một thực tế không dễ chấp nhận: Việt Nam vẫn chưa trở thành điểm đến hấp dẫn của giới chuyên gia quốc tế và Việt kiều. Những nỗ lực mời gọi dù đã có, nhưng chưa đủ mạnh để trở thành sức hút thực sự. Nhiều người từng về rồi lại ra đi.
Thu hút và giữ chân chuyên gia không thể chỉ dựa vào vài chính sách ưu đãi lương bổng. Điều họ cần là một môi trường nghiên cứu thực sự cởi mở, một cơ chế tài chính minh bạch, quyền tự chủ trong học thuật và nghiên cứu, cơ hội hợp tác quốc tế, và đặc biệt là sự tôn trọng dành cho tri thức tinh hoa.
Chính sách đã có đổi mới nhưng cách làm, cách nghĩ cũng phải đổi mới. Đừng chỉ tiếp cận nhân tài dưới góc độ là số lượng, chỉ tiêu hay thành tích ngắn hạn, mà cần đón nhận họ như những người đồng hành lâu dài, những người có quyền đòi hỏi, có quyền chọn lựa và có quyền cống hiến theo cách của họ.
Cũng cần thẳng thắn rằng đây là vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự thay đổi kiên trì, nhất quán, không thể nóng vội hay trông chờ vào “bước nhảy vọt”. Lời mời gọi sẽ không bền vững nếu thiếu tầm nhìn xa và sự chung sức của nhân tài trong nước hay niềm tin về sự đóng góp lâu dài.
Nếu không mạnh dạn cắt bỏ những rào cản cũ, từ tư duy xin - cho đến cơ chế quản lý kiểu hành chính hóa, thì dù có mở cửa, nhân tài cũng chỉ đến rồi đi.
Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn, khi nhu cầu hội nhập, chuyển đổi số, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo chưa bao giờ cấp bách như hiện nay. Nhưng cơ hội ấy sẽ vụt qua nếu không kèm theo những hành động đủ mạnh và đủ quyết liệt để biến chính sách thành hiện thực. PHẠM ANH