Y tế dự phòng - Trụ cột bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân
Trong bối cảnh thế giới đang chứng kiến nhiều biến động về môi trường, khí hậu, xuất hiện của nhiều loại dịch bệnh mới, Việt Nam đứng trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới toàn diện hệ thống y tế. Điểm nổi bật của Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về 'Một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới' là đặt y tế dự phòng ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển y tế quốc gia, coi phòng bệnh là nền tảng chăm sóc sức khỏe bền vững.
Nâng tầm chiến lược y tế dự phòng lên cấp độ quốc gia
Y tế dự phòng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của ngành y tế nói riêng và sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe Nhân dân nói chung. Khi bệnh tật được ngăn chặn từ sớm, hệ thống bệnh viện sẽ không bị quá tải, tiết kiệm nguồn lực, nhân lực và chi phí. Bên cạnh đó, các dữ liệu từ công tác giám sát dịch tễ, tiêm chủng, kiểm dịch, vệ sinh môi trường giúp Nhà nước hoạch định chính sách, chiến lược y tế phù hợp, hiệu quả. Nhờ các chương trình y tế dự phòng, Việt Nam đã khống chế được nhiều dịch bệnh nguy hiểm như bại liệt, uốn ván sơ sinh, sởi… và đang từng bước kiểm soát các bệnh truyền nhiễm mới. Bên cạnh đó, y tế dự phòng còn góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng, giúp người dân chủ động hơn trong chăm sóc sức khỏe bản thân, gia đình.

Lớp tập huấn “Bồi dưỡng kỹ năng công nghệ thông tin” cho các cán bộ, nhân viên trạm y tế phường Thanh Xuân, TP. Hà Nội. Ảnh: H. LÊ
Đặc biệt, đại dịch COVID-19 vừa qua đã một lần nữa cho thấy sức mạnh và tầm quan trọng của hệ thống y tế dự phòng. Chính sự vào cuộc kịp thời của lực lượng y tế cơ sở, đội ngũ xét nghiệm, truy vết, kiểm dịch… đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam kiểm soát tình hình dịch bệnh trong giai đoạn khó khăn nhất. Mỗi đồng đầu tư vào phòng bệnh có thể tiết kiệm hàng chục đồng chi phí điều trị. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn giúp ổn định xã hội. Đầu tư cho y tế dự phòng chính là đầu tư cho tương lai và sự phát triển bền vững của đất nước.
Trước đây, Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới (Hội nghị Trung ương 6, Khóa XII, năm 2017) và một số chủ trương, chính sách khác trên lĩnh vực y tế đều đề cập đến vai trò của y tế dự phòng, song chủ yếu trong phạm vi kiểm soát dịch bệnh, tiêm chủng và vệ sinh môi trường. Mục tiêu và giải pháp còn thiên về y tế cơ sở, thiếu tính tổng thể và chưa có chỉ tiêu định lượng cụ thể.
Nghị quyết 72 đánh dấu bước chuyển về tư duy chiến lược, tầm nhìn dài hạn và toàn diện hơn với 5 điểm nổi bật: định vị lại vai trò của y tế dự phòng từ “một bộ phận quan trọng” trở thành “trụ cột trung tâm” của hệ thống y tế; xác định mục tiêu, chỉ tiêu rõ ràng, cụ thể trên lĩnh vực y tế dự phòng; có chính sách đột phá để phát triển nguồn nhân lực; chuyển đổi số toàn diện; tăng cường liên kết liên ngành và xã hội hóa.
Như vậy, Nghị quyết 72 không chỉ kế thừa tinh thần của các nghị quyết, chủ trương, chính sách trước đây, mà còn nâng tầm chiến lược y tế dự phòng lên cấp độ quốc gia, với tầm nhìn hiện đại, bao trùm và mang tính khả thi cao. Có thể khẳng định: Nghị quyết số 72-NQ/TW mở ra hướng đi mới cho nền y tế Việt Nam: từ bị động sang chủ động, từ chữa bệnh sang bảo vệ sức khỏe suốt đời. Đây là bước tiến tất yếu trong quá trình hiện đại hóa ngành y tế; đồng thời, cũng là minh chứng sinh động của một nhà nước lấy con người làm trung tâm của phát triển.
Đột phá ứng dụng công nghệ số, thu hút nhân lực
Nghị quyết 72 đã nêu 5 quan điểm chỉ đạo; khẳng định: "Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, nền tảng quan trọng nhất cho hạnh phúc của mọi người, cho sự tồn vong của dân tộc và sự phát triển thịnh vượng, bền vững của đất nước" và đặt con người ở vị trí chủ thể, trung tâm trong chiến lược phát triển y tế. Đưa ra những mục tiêu cụ thể đến năm 2030, định hướng tầm nhìn đến năm 2045: phấn đấu môi trường sống có chất lượng tốt, các chỉ số sức khỏe của người dân, chỉ số bao phủ dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu ngang tầm các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Để đạt các mục tiêu đó, Nghị quyết 72 đã đề ra 6 nhóm giải pháp và yêu cầu cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan hữu quan từ Trung ương đến cơ sở tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả.
Trọng tâm đầu tiên là tăng cường năng lực hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến cơ sở. Mạng lưới trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các cấp được củng cố; năng lực giám sát, dự báo, phát hiện và kiểm soát dịch bệnh được nâng lên tầm chủ động. Song song, công tác phòng bệnh không lây nhiễm, an toàn thực phẩm, sức khỏe môi trường và sức khỏe học đường được chú trọng đồng bộ. Nâng cao năng lực quản lý sức khỏe toàn dân, với mục tiêu mỗi người dân có hồ sơ sức khỏe điện tử và được khám, sàng lọc định kỳ ít nhất một lần mỗi năm. Đây là bước tiến lớn so với các giai đoạn trước, khi công tác dự phòng còn mang tính rời rạc và chưa được cá nhân hóa.
Một điểm đột phá khác là ứng dụng công nghệ số trong y tế dự phòng với yêu cầu xây dựng hồ sơ sức khỏe điện tử toàn dân, kết nối với hệ thống bảo hiểm y tế và bệnh viện; triển khai nền tảng y tế số quốc gia với các công cụ dự báo, cảnh báo sớm dịch bệnh dựa trên dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI). Đây là bước chuyển mạnh mẽ từ mô hình quản lý thủ công sang hệ thống y tế thông minh, chủ động, dựa trên dữ liệu thực tế, giúp dự phòng hiệu quả và giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh.
Một trong những điểm tiến bộ rõ rệt của Nghị quyết 72 là cơ chế đãi ngộ và thu hút nhân lực y tế dự phòng. Theo đó, cán bộ y tế dự phòng và tuyến cơ sở được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề tối thiểu 70%, vùng khó khăn lên đến 100%; đồng thời, được cải thiện điều kiện làm việc, đào tạo chuyên môn và khuyến khích gắn bó lâu dài. Chính sách này được đánh giá là bước đi cần thiết, nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực y tế dự phòng - vấn đề tồn tại suốt nhiều năm qua.
Nghị quyết số 72-NQ/TW là minh chứng rõ nét cho đổi mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác y tế dự phòng. Đó chính là tầm nhìn nhân văn và phát triển bền vững - một bước đột phá thực sự trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Đây không chỉ là bước tiến về chính sách, mà còn là cam kết nhân văn sâu sắc: mọi người dân Việt Nam đều được sống khỏe mạnh, an toàn và hạnh phúc.