Ý nghĩa điển hình, đặc biệt của Cách mạng Tháng Tám
Ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ ở quá trình chuẩn bị lâu dài, với quy mô to lớn, làm thay đổi số phận của một dân tộc từ thân phận nô lệ trở thành người chủ của đất nước, mà còn ở tính tiên phong trong việc phản ánh những mục tiêu cơ bản của thời đại là độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Cuộc Cách mạng Tháng Tám là điển hình của cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Không khí Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8-1945. Ảnh: TTXVN
1. Ý nghĩa và những giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Tám đã được khẳng định. Tuy nhiên, trước đây có một số nhà sử học nước ngoài cố tình phủ nhận lịch sử, thông qua các công trình nghiên cứu của mình đã có những đánh giá không đúng về Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Tiêu biểu trong số họ là nhà sử học người Mỹ Bernard Fall, là tác giả cuốn "Le Viet Minh" xuất bản năm 1960.
Trong đoạn viết về Cách mạng Tháng Tám, Bernard Fall cho rằng: "Về mặt quân sự, cuộc Cách mạng Tháng Tám không có gì đáng kể ngoài trận đánh ở Tam Đảo". Nhận xét về nhận định không đúng trên đây của Bernard Fall, Giáo sư - Viện sĩ Trần Huy Liệu đã phê phán rằng: "Ý kiến trên đây chẳng phải chỉ là ý kiến riêng của Bernard Fall. Nếu người nào nhìn cuộc Cách mạng Tháng Tám không phải bằng con mắt chính trị sáng suốt thì không thể đánh giá được cuộc Cách mạng Tháng Tám, không thể thấy được yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám".
Giáo sư - Viện sĩ Trần Huy Liệu đã chỉ rõ, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình chuẩn bị lâu dài, là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó là: "Cuộc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa được tiến hành từ lâu, nghĩa là từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5-1941 và được xúc tiến từ sau cuộc ngày Nhật đánh đổ Pháp 9-3-1945. Vấn đề đặt ra cho cuộc khởi nghĩa lúc ấy là vấn đề thời cơ, chọn lựa thời cơ và tranh thủ thời cơ. Những người mà ôm một quan niệm "tĩnh" và dốt về duy vật biện chứng thì chỉ thấy rằng lực lượng so sánh giữa ta và địch".
Không chỉ riêng Bernard Fall, một số nhà sử học nước ngoài khác cũng đã có những đánh giá sai lầm về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Họ cho rằng: "Đó là sự ăn may", rằng ở đó có một "khoảng trống quyền lực", và rằng "những người Cộng sản đã cướp công của những người quốc gia".
Phê phán một cách mạnh mẽ những quan điểm không đúng với sự thật lịch sử của các nhà sử học đó, Tiến sĩ Đinh Trần Dương viết: "Các học giả tư sản ấy đã không nghiên cứu đầy đủ thái độ của đại đa số nhân dân đối với Đảng Cộng sản, vai trò và đóng góp to lớn của họ đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám không chỉ bất ngờ mà còn trái với ý muốn của Anh, Mỹ, Tưởng. Còn đối với thực dân Pháp, thái độ rất rõ ràng: Không thừa nhận bất kỳ một kiểu độc lập nào của người Việt Nam cả (...)".
Trong tác phẩm Lịch sử Việt Nam từ năm 1940 đến năm 1952, nhà sử học Pháp Philippe Devillers cũng đưa ra nhận định: Cách mạng thành công "nhanh chóng đến mức làm cho người ta sững sờ"; hoặc nhà sử học người Na Uy Stein Tonnesson cũng viết trong cuốn Cách mạng Việt Nam 1945, Roosevelt, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong chiến tranh Thế giới (The Vietnamese Revolution of 1945, Roosevelt, Ho Chi Minh and De Gaulle in a World at war) rằng: "Cuộc cách mạng đã thành công dễ dàng đến thế" và "Do việc tạo nên thế thắng nên quân Đồng minh đã dọn đường để Việt Minh nắm được chính quyền".
Đánh giá về những nhận định sai lầm về thời gian bắt đầu và kết thúc của Cách mạng Tháng Tám của Philippe Devillers và Stein Tonnesson, Phó Giáo sư Bùi Đình Thanh cho rằng: "Cần xem xét cuộc Cách mạng Tháng Tám trong bối cảnh lịch sử của Chiến tranh Thế giới thứ hai trên chiến trường châu Á - Thái Bình Dương. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự đấu trí và đấu lực giữa năm tác nhân chính (nhân dân và Đảng Cộng sản Việt Nam, Pháp, Nhật, Trung Quốc và Mỹ) trong quá trình của cuộc vận động lịch sử nói trên".
Như vậy, có thể khẳng định rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình chuẩn bị lâu dài, tuy chỉ diễn ra trong thời gian ngắn và gánh chịu ít hy sinh, tổn thất. Chính là nhờ sự lãnh đạo nhạy bén, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đánh giá đúng tình hình thế giới và trong nước, dự đoán thời cơ, chủ động nắm bắt thời cơ, đề ra khẩu hiệu đấu tranh đúng đắn, đoàn kết toàn dân tộc tiến hành Tổng khởi nghĩa bằng phương pháp đấu tranh phù hợp nên đã giành được thắng lợi.
2. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là tiêu biểu cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga và sau Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các nước thuộc địa. Đặc biệt hơn nữa là Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam không chỉ là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, mà còn là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, thuộc phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Các cuộc cách mạng nổ ra ở một số nước Đông Nam Á hay một số nước châu Á khác và ở Mỹ - Latinh không gắn liền cuộc cách mạng giải phóng dân tộc với cuộc cách mạng dân chủ nhân dân nên không triệt để và bị biến chất rất nhanh. Cái chính là cách mạng không do giai cấp công nhân mà đại diện là Đảng Cộng sản lãnh đạo, mà lại do giai cấp tư sản lãnh đạo.
Do đó, tính chất triệt để cách mạng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là sau khi đã giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay nhân dân. Nhưng đó mới chỉ là kết thúc một giai đoạn cách mạng mà tiếp tục mở ra một giai đoạn mới của cách mạng, đó là xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đúng như nhận định của PGS.TS Ngô Minh Oanh: “Đảng Cộng sản Việt Nam bộc lộ một năng lực lãnh đạo, tổ chức và tập hợp được quần chúng đấu tranh giành chính quyền trong thời điểm tháng 8 năm 1945, mà không phải Đảng Cộng sản nào ở khu vực cũng làm được”.
Một ý nghĩa rất đặc biệt khác là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2-9-1945 trong thời điểm Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc.
Trong bối cảnh đó đã diễn ra Hội nghị Potsdam, từ ngày 17-7 đến ngày 2-8-1945, giữa những người đứng đầu 3 cường quốc Liên Xô, Mỹ và Anh. Hội nghị quyết định chia Đông Dương làm hai phần Bắc Đông Dương và Nam Đông Dương để quân đội của Anh và quân đội của Tưởng Giới Thạch vào tiếp quản sự đầu hàng của phát xít Nhật.
Quyết định này mang tính chất nửa vời vì không thật rõ ràng quy chế cho Đông Dương, sau chiến tranh sẽ được độc lập hoàn toàn hay chịu sự thác quản quốc tế, hoặc giao lại cho Pháp thống trị như trước. Đánh giá về việc này, tác giả Nguyễn Phúc Luân (chủ biên) trong cuốn Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975) đã chỉ rõ: "Đó là thỏa hiệp có tính tạm thời và chứa đựng nhiều sự khác nhau. Nhất là giữa Mỹ - Tưởng với Anh - Pháp và giữa Liên Xô với Anh - Mỹ".
Trên thực tế, lịch sử diễn ra sau đó đã cho thấy quyết định của Hội nghị Potsdam về Đông Dương là không phù hợp với diễn biến tình hình Đông Dương và khu vực châu Á, Đông Nam Á lúc đó. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã nổ ra và giành được thắng lợi. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời Nhà nước Việt Nam độc lập. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Như vậy là Cách mạng Tháng Tám đã kịp thời giành thắng lợi đúng thời cơ phát xít Nhật vừa đầu hàng Đồng minh, bộ máy chính quyền thân Nhật của Trần Trọng Kim đã rệu rã và quan trọng hơn là quyết định của Hội nghị Potsdam chưa kịp triển khai, quân đội Anh và quân đội của Tưởng Giới Thạch chưa kịp vào nước ta. Chúng ta đã tạo nên thế hợp pháp, chính nghĩa của Chính phủ lâm thời khi đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp quân đội phát xít Nhật trên tư thế của người chủ đất nước.
Đánh giá ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tác giả Nguyễn Phúc Luân khẳng định: Việt Nam - một nước thuộc địa nhỏ bé, lạc hậu, giành được nền tự do vào thời điểm Chiến tranh Thế giới kết thúc đã trở thành một biểu tượng chẳng những về lòng quả cảm cách mạng mà còn được ghi nhận như là bước mở đầu cuộc tiến công trực diện phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp trên toàn cầu".
PGS.TS Đinh Quang Hải
Nguyên Viện trưởng Viện Sử học,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam