'Ý chí' và 'Ý trí'
Một chương trình vui chơi tìm hiểu về tiếng Việt, yêu cầu xác định 'Ý chí hay ý trí' đúng chính tả. Người chơi trả lời 'Từ thứ nhất' (tức 'ý chí'), liền được người dẫn chương trình xác nhận là 'Chính xác'.

Như vậy, theo chương trình này thì viết “ý trí” là sai chính tả. Sẽ có không ít người đồng ý với điều này. Tuy nhiên, trong thực tế “ý chí” và “ý trí” là hai từ khác nhau, hoàn toàn không phải “ý trí” là lỗi chính tả của “ý chí”.
Trong số những cuốn từ điển chúng tôi có trong tay có tới 3 cuốn dành cho “ý trí” và “ý chí” hai mục riêng:
- Từ điển Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập) giảng “ý trí” là “ý - thức với trí - tuệ”; còn “ý chí” được giảng là “ý quyết - định làm và phải thành - công; thường gọi tắt là cái chí”.
- Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) giảng “ý trí” là “ý - thức và trí - tuệ”; còn “ý chí” là “chí, sự quyết - định nuôi - nấng trong lòng và quyết tâm làm cho có kết - quả”.
- Hán Việt tân từ điển (Nguyễn Quốc Hùng) giảng “ý trí” là: “Điều suy nghĩ và sự hiểu biết; Cũng chỉ người giỏi suy nghĩ và sáng suốt, hiểu biết nhiều”.
Tra trong Hán ngữ đại từ điển, thì “ý trí” (意智) được giảng hai nghĩa:
1- “Do tâm kế; chủ kiến” (猶心計;主見), nghĩa là “như tâm kế (mưu lược, mưu trí, tính toán); chủ kiến”. Ví dụ “Hậu Hán thư - Tiên Ti truyện” viết: “Từ khi Hung Nô tan rã, Tiên Ti cường thịnh, chiếm cứ đất cũ, xưng binh mười vạn, tài lực mạnh mẽ, ý trí càng thêm dồi dào.” Hay “Chu Tử ngữ loại” viết: “Nhan Lỗ Công chỉ có lòng trung nghĩa mà không có ý trí; khi đến đó gặp sứ giả tới, chẳng biết là giặc, liền quỳ hai lạy, sau mới biết thì mắng”.
2- “Do trí tuệ” (猶智慧), nghĩa là “như trí tuệ, thông tuệ” (chỉ sự thông minh tài trí). Ví dụ, “Tam Quốc chí - Thục chí - Tiên Chúa truyện”, chú của Bùi Tùng Chi dẫn “Gia Cát Lượng tập”: “Lưu Bị để lại di chiếu dặn Hậu chủ: “Có thể đọc Hán thư, Lễ ký, lúc rảnh rỗi lại xem các sách chư tử cùng Lục thao, Thương Quân thư, để tăng thêm ý trí”.
Trong tiếng Việt, “ý trí” được dùng nhiều trong Phật giáo. Ví dụ một số ngữ liệu trong “Giải thoát luận”:
- “Nói rộng thêm về thí dụ động cơ trên, tham, sân, si là những động cơ xấu; còn niềm tin, ý trí và sự hiểu biết là những động cơ tốt. [...] Nhưng nếu tự biết mình ngu si, mà có được niềm tin tưởng nơi Phật pháp, chịu khó gần người có ý trí và hiểu biết để học thêm, thì việc sửa đổi tánh hạnh cũng chẳng khó đến mức chẳng làm nổi”.
- “Hai người tánh hạnh trái ngược nhau, như người hay giận và người có ý trí, nhưng hành động của họ lại biểu lộ ra cùng chung một tướng: người hay giận cứ xét đến lỗi lầm của kẻ khác, còn người có ý trí cứ thấy những chỗ còn thiếu sót khiến cho hành vi chẳng được tốt như ý người ấy đang chờ đợi. Chính cái chỗ soi mói (của người hay giận), chỗ nhìn kỹ tỉ mỉ (của người có ý trí) là tướng chung cho cả hai tánh hạnh khác nhau và đối chọi nhau.” (Giải thoát luận - Phân biệt tánh hạnh - Thiện Nhựt dịch - Quangduc.com).
Theo như trên, thì “ý trí” được dùng để chỉ người có năng lực ý thức + trí tuệ (người biết điều khiển tâm ý bằng trí), đối lập với người hay cáu giận.
Như vậy, “ý trí” (意智) không phải lỗi chính tả của “ý chí” (意志) mà 2 từ gốc Hán hoàn toàn khác nhau. Trong Phật học, “ý trí” là thuật ngữ dịch chuẩn xác từ hai chữ ý trí - 意智 (trí tuệ), mang ý nghĩa triết học sâu xa, không thể thay thế bằng “ý chí” (nghị lực, quyết tâm). Trong tiếng Việt hiện đại, “ý chí” được dùng phổ biến, còn “ý trí” thường chỉ xuất hiện trong văn cảnh Phật học, nhưng không vì thế mà cho rằng “ý trí” là lỗi chính tả của “ý chí”.