Ý chí, bản lĩnh và khát vọng độc lập dân tộc:Bài cuối: Khẳng định chân lý 'Không có gì quý hơn độc lập, tự do'

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Lâm thời, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Người nhiều lần nhắc đến hai từ 'độc lập', 'tự do'.

Thông điệp gửi tới cộng đồng quốc tế

Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo vào cuối tháng 8/1945, trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử đất nước. Cuộc cách mạng tháng Tám đã thành công nhanh chóng, đất nước giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật. Nhưng nền độc lập vừa giành được của dân tộc Việt Nam đứng trước nguy cơ bị các thế lực thực dân, đế quốc xâm phạm. Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, TS. Vũ Mạnh Hà cho biết, trong thời điểm ấy, bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là lời tuyên bố trước quốc dân, đồng bào cả nước, mà còn là một thông điệp gửi tới cộng đồng quốc tế: Việt Nam đã độc lập và Nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy bằng tất cả tinh thần, lực lượng và sinh mệnh của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của nước Pháp. L.A.Patti - Trưởng phòng Đông Dương của Cơ quan Tình báo chiến lược OSS của Mỹ ở Hoa Nam từng kể, ngày 29/8/1945, khi được Hồ Chí Minh cho nghe bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập, ông rất ngạc nhiên bởi Hồ Chí Minh đã sử dụng, đảo trật tự, thay thế một số câu trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ. Điều này đã đem lại cho bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam những ý nghĩa mới.

Theo đó, nếu bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ viết: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", thì Hồ Chí Minh đã mở rộng và nâng vấn đề quyền tự do lên một tầm cao mới, không dừng lại ở quyền cho mỗi cá nhân mà mở rộng trở thành quyền của mọi dân tộc. Người viết: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

"Với cách trích dẫn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam vào một nền tảng tư tưởng mang tính phổ quát, được công nhận bởi chính những quốc gia văn minh nhất. Điều này giúp cho lời tuyên bố độc lập của Việt Nam trở nên chính danh, có căn cứ pháp lý, có sức thuyết phục và sự lan tỏa quốc tế mạnh mẽ", TS. Vũ Mạnh Hà khẳng định.

Vườn hoa Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu - TTXVN

Vườn hoa Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu - TTXVN

PGS.TS. Võ Xuân Vinh, Viện trưởng Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phân tích, tinh thần độc lập gắn với tự do, trong đó tự do là tự do cho quốc gia - dân tộc cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chỉ rõ trong nhiều thời điểm khác nhau sau đó. Trước khi Phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa sang Pháp đàm phán về Hiệp định sơ bộ tháng 4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò các điểm cốt yếu, trong đó có nội dung về tự do, thống nhất hoàn chỉnh về lãnh thổ; tự do liên hiệp với Pháp nhưng Việt Nam phải có ngoại giao độc lập với các nước lớn và các nước láng giềng; Pháp phải giới thiệu Việt Nam vào Liên Hợp Quốc...

Trong Chỉ thị ngày 22/5/1947 được ban hành sau cuộc gặp giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và đặc phái viên của Chính phủ Pháp tại Đông Dương, Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Pháp muốn giải quyết vấn đề Việt Nam thì chỉ có một cách là thẳng thắn mở cuộc đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh và công nhận Việt Nam thống nhất và độc lập thực sự trong khối Liên hiệp Pháp”.

Tuy nhiên, theo PGS.TS. Võ Xuân Vinh, “Pháp định nhận Việt Nam độc lập và thống nhất nhưng không cho Việt Nam có quyền ngoại giao với các nước và phòng thủ với nước mình (hai quyền ấy dành riêng cho Pháp); đồng thời quân Pháp tha hồ đóng trên đất Việt Nam (bất cứ đóng ở đâu và đóng đến bao giờ), nghĩa là một thứ độc lập thống nhất, có danh không có thực”. Cho nên, “tự do không xin mà được. Tự do phải chiến đấu mà giành lấy”.

Độc lập gắn liền với tự do - tầm nhìn mang tính thời đại

Cũng trong Tuyên ngôn Độc lập, sau khi vạch rõ tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất Việt Nam”.

Cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp của dân tộc Việt Nam buộc phải diễn ra, bởi “Pháp chưa bao giờ trao quyền tự chủ đáng kể cho các thuộc địa Đông Nam Á cho đến khi buộc phải làm như vậy…”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu - TTXVN

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu - TTXVN

PGS.TS. Võ Xuân Vinh nhấn mạnh, đó là lý do trong Lời kêu gọi gửi đồng bào toàn quốc, nhân dân Pháp và nhân sĩ toàn thế giới vào tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi chỉ rõ âm mưu thực dân Pháp muốn cướp Việt Nam một lần nữa, đã chỉ rõ: “Nay Việt Nam chỉ có hai con đường: hoặc bó tay chịu mất nước, cúi đầu làm nô lệ cho thực dân Pháp, hoặc kiên quyết phấn đấu để giữ quyền độc lập và tự do… Dân Việt Nam quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ. Dù phải hy sinh, đau khổ đến mấy, dân Việt Nam cũng quyết giữ lấy quyền độc lập, tự do”.

"Nếu so sánh với cách thức mà Pháp duy trì lợi ích ở các nước trước đây là thuộc địa ở châu Phi, chúng ta có thể thấy rõ hơn tầm nhìn mang tính thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập gắn liền với tự do hoàn toàn cho dân tộc Việt Nam", PGS.TS. Võ Xuân Vinh khẳng định.

Theo TS. Vũ Mạnh Hà, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” thực sự trở thành ngọn cờ cổ vũ toàn thể nhân dân Việt Nam vùng lên chiến đấu, là nền tảng cho tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

"Trải qua cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, một lần nữa, các thế hệ người Việt xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, thống nhất và tự do của dân tộc. Cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ ấy đã đi đến thắng lợi vĩ đại vào mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định trước thế giới rằng: không có thế lực nào có thể khuất phục được một dân tộc mang trong mình lý tưởng độc lập, tự do", TS. Vũ Mạnh Hà nhận định.

Hương Sen

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/y-chi-ban-linh-va-khat-vong-doc-lap-dan-toc-bai-cuoi-khang-dinh-chan-ly-khong-co-gi-quy-hon-doc-lap-tu-do-10384406.html
Zalo