Xuất khẩu rau quả vượt khó để hoàn thành mục tiêu

Các HTX, doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để xuất khẩu rau quả. Vậy nhưng, những khó khăn trong mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng… lại chưa được giải quyết triệt để, từ đó tác động đến hoạt động xuất khẩu của ngành.

Những con số từ ngành chức năng công bố về tình hình xuất khẩu rau quả 5 tháng năm 2025 đã gióng lên một hồi chuông báo động thực sự.

Căn bệnh trầm kha

Cụ thể, theo số liệu từ Hiệp hội rau quả Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu rau, quả trong tháng 5 đạt 496 triệu USD. Lũy kế 5 tháng năm 2025, xuất khẩu rau, quả đạt 2,1 tỷ USD, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm 2024.

Nguyên nhân trực tiếp và dễ thấy nhất đến từ sự chững lại của sầu riêng. Từng là động lực chính kéo cả ngành, nay sầu riêng đang gặp khó trong tiêu thụ. Lý do chính là hàng rào kỹ thuật ngày càng siết chặt của thị trường Trung Quốc. Các lô hàng sầu riêng Việt Nam liên tục bị kiểm tra nghiêm ngặt về tồn dư kim loại nặng như cadmium, các vấn đề về bệnh đốm vàng, đặc biệt là yêu cầu truy xuất nguồn gốc minh bạch thông qua mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói.

Xuất khẩu sầu riêng chậm chạp đã chứng minh rằng, ngành rau quả có trị giá hàng tỷ USD lại quá phụ thuộc vào một vài sản phẩm chủ lực và một thị trường duy nhất. Khi nhìn sâu hơn, sự sụt giảm trong xuất khẩu của 5 tháng đầu năm chính là hệ quả tất yếu đã tồn tại trong nhiều năm.

Trung Quốc là thị trường xuất khẩu nông sản chính của nhiều HTX, doanh nghiệp.

Trung Quốc là thị trường xuất khẩu nông sản chính của nhiều HTX, doanh nghiệp.

Điều đầu tiên, đó là chuỗi cung ứng manh mún, nhỏ lẻ và thiếu chuyên nghiệp. Thay vì các vùng trồng quy mô lớn, được quy hoạch bài bản, phần lớn nông sản Việt Nam vẫn đến từ các hộ nông dân nhỏ lẻ. Các HTX hiện vẫn khó liên kết với doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, công nghệ sau thu hoạch vẫn là một lỗ hổng khổng lồ. Ông Nguyễn Thế Bảo, Giám đốc HTX Xoài Suối Lớn (Đồng Nai) cho biết, xoài nói riêng, rau quả nói chung một khi đã đến kỳ thì buộc phải thu hoạch. Nhưng do thời gian thu hoạch ngắn, lại thiếu nhà kho bảo quản ngay tại vùng trồng, nên xoài không thể giữ được lâu. Do đó, xoài của HTX khó cạnh tranh được với xoài từ Campuchia và khó liên kết được với doanh nghiệp chế biến.

Chính vì điều này mà đến nay, tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch của rau quả Việt Nam vẫn ở mức rất cao, từ 25-30%. Trái cây tươi tại vườn nhưng qua nhiều khâu vận chuyển, bốc xếp thủ công, và thiếu công nghệ bảo quản hiện đại (như kho lạnh, công nghệ chiếu xạ, bảo quản bằng khí quyển biến đổi - MAP), đã nhanh chóng xuống cấp, mất đi giá trị thương phẩm khi đến tay nhà nhập khẩu.

Một vấn đề nữa đó là hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ còn thiếu cả tiêu chuẩn lẫn công nghệ. Việc áp dụng các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt như VietGAP, GlobalGAP tuy đã được triển khai ở rất nhiều HTX nhưng chưa thực sự trở thành yêu cầu bắt buộc và phổ biến.

Bà Đặng Thúy Nga, Giám đốc HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp Xuân Định (Đồng Nai), cho biết việc sầu riêng xuất khẩu sang Trung Quốc không đạt chuẩn nguyên nhân chính là ở khâu sử dụng phân bón, vật tư nông nghiệp không đúng quy cách. Nhưng thị trường vật tư nông nghiệp hiện nay vẫn còn bát nháo. Những loại phân bón hữu cơ, phân bón có trong danh mục cho phép thì người dân, thành viên HTX rất khó tiếp cận hoặc có tiếp cận được nhưng giá lại cao.

Trong khi đó, chi phí logistics xuất khẩu cũng đang làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam. So với các đối thủ trong khu vực như Thái Lan, chi phí vận chuyển (cả đường bộ và đường biển) từ Việt Nam đi các thị trường lớn thường cao hơn. Điều này cộng với những yếu kém về bảo quản càng khiến giá thành sản phẩm cuối cùng bị đội lên, làm giảm lợi thế cạnh tranh của nông sản Việt.

Rủi ro rình rập

Theo thống kê từ ngành chức năng, nông sản của Việt Nam đang xuất khẩu phần lớn sang thị trường Trung Quốc. Điều này cho thấy sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc của hàng hóa Việt. Cụ thể là thị trường này chiếm tới 64% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Riêng với sầu riêng, con số này lên đến hơn 95%.

Như tại HTX Dịch vụ nông nghiệp xoài Sông Mã (Sơn La), với 10 ha xoài đạt chuẩn VietGAP, HTX chủ yếu xuất khẩu xoài sang Trung Quốc thông qua các doanh nghiệp. Và mục tiêu năm 2025 của HTX cũng là xuất khẩu xoài sang thị trường này. Còn với HTX thanh long sạch Hòa Lệ (Bình Thuận), Trung Quốc cũng là một trong những thị trường xuất khẩu thanh long chính.

Sự dễ dàng trong việc tiếp cận, địa lý gần và nhu cầu khổng lồ từ thị trường Trung Quốc trong nhiều năm khiến nhiều HTX, doanh nghiệp lựa chọn Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chính.

Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, HTX, nông dân và cả doanh nghiệp thời gian qua chỉ tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu của một khách hàng duy nhất, mà quên đi việc phải đa dạng hóa thị trường nhằm giảm bớt rủi ro. Khi Trung Quốc thay đổi chính sách, yêu cầu chất lượng cao và kiểm soát nghiêm ngặt hơn, khâu xuất khẩu đã gặp khó khăn. Mà thực tế từ xuất khẩu sầu riêng đang cho thấy điều này. Khi quá phụ thuộc vào một thị trường đồng nghĩa với việc nông dân, HTX, doanh nghiệp dễ bị động trước bất kỳ thay đổi nào từ phía đối tác.

Do đó, để đạt được mục tiêu xuất khẩu 8 tỷ USD trong năm 2025, cần có một cuộc tái cấu trúc mạnh mẽ và toàn diện. Bởi thực chất, những nỗ lực của ngành nông nghiệp trong thời gian qua là không thể phủ nhận. Tính đến nay, cả nước đã có 8.052 mã số vùng trồng và 1.596 mã số cơ sở đóng gói được cấp, cùng với 93 sản phẩm nông sản được gắn thương hiệu quốc gia. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một phần cần đáp ứng trong quá trình xuất khẩu. Như một lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường từng nhấn mạnh: “Muốn đi đa thị trường thì chất lượng phải xây từ gốc”.

Hiện, Việt Nam đã có được những mã số vùng trồng nhất định nhưng đi liền với đó cần quản lý và giám sát tại các vùng trồng này một cách chặt chẽ. Bởi, chất lượng thực sự phải đến từ quy trình canh tác, từ ý thức của người nông dân, và từ sự đầu tư bài bản của HTX, doanh nghiệp. Do đó, cần biến các mã số này thành công cụ quản lý thực chất, minh bạch, có thể truy xuất được toàn bộ quá trình canh tác, thay vì chỉ là những con số để đối phó.

Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân, HTX tích tụ đất đai để hình thành các vùng chuyên canh lớn, áp dụng đồng bộ quy trình VietGAP, GlobalGAP, tạo ra sản phẩm đồng đều về chất lượng đi liền với thu hút đầu tư vào hệ thống kho lạnh, công nghệ đóng gói, chiếu xạ, và chuỗi cung ứng lạnh (cold chain). Có như vậy, nông sản Việt mới đa dạng hóa được thị trường, giảm sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.

Ông Lê Quí Hòa Bình, Quản lý chứng nhận nông nghiệp, Control Union Việt Nam Control Union, cho biết khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế phức tạp vẫn là một rào cản lớn hiện nay.

Các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc hay New Zealand không chỉ đơn thuần là nơi để bán hàng. Đó là những "pháo đài" được bảo vệ bởi hàng loạt quy định nghiêm ngặt: từ giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (MRL) chuẩn quốc tế, các yêu cầu về đánh giá nguy cơ dịch hại (PRA), đến các quy định về mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, kiểm soát vi sinh, an toàn thực phẩm, và thậm chí cả các tiêu chuẩn về lao động và phát triển bền vững.

Do đó, HTX, doanh nghiệp cần nghiên cứu sâu sắc từng thị trường mục tiêu để đáp ứng đúng và đủ các tiêu chuẩn của họ. Bên cạnh đó, cần chuyển từ tư duy "bán cái mình có" sang "bán cái thị trường cần" và xây dựng thương hiệu quốc gia gắn liền với chất lượng, an toàn và bền vững, thay vì chỉ chạy theo sản lượng và giá rẻ.

Huyền Trang

Nguồn Vnbusiness: https://vnbusiness.vn//hop-tac-xa/xuat-khau-rau-qua-vuot-kho-de-hoan-thanh-muc-tieu-1107259.html
Zalo