Xuất khẩu cần gỡ nút thắt để bứt phá
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây liên tục tăng trưởng, đóng góp quan trọng vào cán cân thương mại và tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, có 2 'điểm nghẽn' lớn đang cản trở bước tiến xa hơn của hàng hóa Việt Nam là sự phụ thuộc vào các thị trường truyền thống và chi phí logistics quá cao. Đây là những vấn đề cần được nhìn nhận như thách thức chiến lược trong dài hạn.
Trong nhiều năm, Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn là những thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch. Tuy nhiên, sự phụ thuộc này giống như “đặt tất cả trứng vào một giỏ”, tiềm ẩn rủi ro khi chính sách hoặc nhu cầu của các đối tác thay đổi.
Theo TS. Nguyễn Đức Kiên, nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, việc phụ thuộc vào một số thị trường lớn có thể đem lại giá trị xuất khẩu cao trong ngắn hạn, nhưng không phải là hướng đi bền vững. Việt Nam cần mở rộng cánh cửa sang các thị trường mới nổi, nơi có nhu cầu thực sự và ít rào cản hơn.

Việt Nam cần tập trung vào hạ tầng logistics
Song song với rủi ro từ thị trường, chi phí logistics cao đang trở thành “gánh nặng ngầm” đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Theo Bộ Công Thương, chi phí logistics của Việt Nam hiện chiếm khoảng 16 - 17% GDP, cao hơn đáng kể so với mức trung bình toàn cầu chỉ 10 - 12%. Trong cơ cấu giá thành, chi phí logistics chiếm tới 20 - 25% đối với nhiều mặt hàng nông sản, thủy sản. Ông Nguyễn Đình Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam nhận định, giá thành sản phẩm của ta vốn có lợi thế rẻ hơn đối thủ, nhưng khi cộng thêm chi phí logistics thì lợi thế ấy nhanh chóng mất đi.
Với ngành gỗ và nội thất, ông Đặng Quốc Hùng, Chủ tịch Hawa Corporation cho biết, doanh nghiệp Việt Nam đang chịu chi phí vận chuyển và lưu kho cao hơn đối thủ Thái Lan khoảng 10 - 15%. Đây là con số không nhỏ với một ngành có biên lợi nhuận chỉ ở mức trung bình.
Một trong những nguyên nhân lớn khiến chi phí logistics đội cao là cấu trúc vận tải phụ thuộc quá nhiều vào đường bộ, chiếm tới gần 80% khối lượng hàng hóa. Trong khi đó, đường thủy nội địa, đường sắt và hàng không mới chỉ đảm đương phần nhỏ, chưa khai thác được lợi thế về chi phí.
Ngoài ra, hệ thống cảng biển thiếu sự kết nối đồng bộ với đường sắt và đường bộ. Các trung tâm logistics hiện đại còn ít, phân tán, thiếu quy mô quốc gia. Đặc biệt, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vựa nông sản xuất khẩu lớn nhất cả nước thì vẫn chưa có cảng trung chuyển quy mô lớn, khiến phần lớn hàng hóa phải vận chuyển đường bộ lên TP. Hồ Chí Minh hoặc Bà Rịa - Vũng Tàu dẫn đến tăng chi phí.
Nhiều doanh nghiệp thừa nhận chi phí logistics cao đã bào mòn lợi nhuận. Bà Ngô Tường Vy, Giám đốc Công ty Xuất khẩu trái cây Chánh Thu nhận định, tình trạng tắc nghẽn cảng và container rỗng không được quay đầu kịp thời đã khiến giá cước tăng thêm tới 1/3.
Trong khi đó, doanh nghiệp dệt may là ngành đóng góp hàng chục tỷ USD xuất khẩu cũng phải thu hẹp đơn hàng từ các thị trường xa, tập trung nhiều hơn vào ASEAN để giảm chi phí vận chuyển. Điều này vô hình trung đã hạn chế khả năng mở rộng thị trường, đi ngược mục tiêu đa dạng hóa.
Theo các chuyên gia, để xuất khẩu bền vững, 2 chiến lược song hành cần được thực hiện là đa dạng hóa thị trường và cải cách logistics. Tăng cường xúc tiến thương mại tại Đông Âu, Trung Đông, châu Phi, Nam Mỹ và tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Hoàn thiện kết nối cảng biển - đường sắt - đường bộ, phát triển cảng trung chuyển quy mô quốc gia và mở rộng hệ thống kho lạnh hiện đại. Đồng thời, đẩy mạnh quản lý vận tải bằng nền tảng số, tự động hóa kho bãi, minh bạch hóa quy trình thông quan. Đặc biệt, là cần có chính sách điều phối thống nhất, cơ quan điều phối logistics quốc gia, tương tự mô hình “ủy ban chuyển đổi số” để thống nhất quy hoạch và chính sách.