Xây dựng và bảo vệ chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình lịch sử của dân tộc, chấm dứt ách thống trị gần 100 năm của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.

Nhân dân Hà Nội chào đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí ứng cử đại biểu Quốc hội khóa I sau khi nước nhà giành được độc lập. Ảnh: Tư liệu
Đất nước giành được độc lập, song công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền của nhân dân ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta vừa chống thù trong, giặc ngoài, vừa nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước về mọi mặt, tạo nên hình mẫu về vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc giành và giữ chính quyền cách mạng trong thực tiễn.
Cuối tháng 8/1945, lấy danh nghĩa quân Đồng minh, gần 200.000 quân Trung Hoa Dân quốc[1], theo gót là lực lượng phản động kéo vào miền Bắc nước ta. Chúng ráo riết thực hiện âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Ở miền Nam, cũng với danh nghĩa quân Đồng minh, quân Anh vào giải giáp quân Nhật, núp sau quân Anh là quân Pháp. Ngày 23/9/1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Chưa bao giờ trên đất nước ta cùng một lúc có nhiều kẻ thù hung bạo và xảo quyệt như lúc này. Vận mệnh nước Việt Nam mới “như ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải làm sau khi tuyên bố độc lập: Phát động ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói; mở ngay chiến dịch chống nạn mù chữ; tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân; mở chiến dịch giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ thói hư, tật xấu do chế độ thực dân để lại; bỏ ngay ba thứ thuế: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.
Tiếp đó, từ ngày 10 đến ngày 11/9/1945, Hội nghị cán bộ Bắc Kỳ của Đảng đề ra các nhiệm vụ về chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội, trong đó, nhiệm vụ chính, trọng tâm trong lúc này là củng cố chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, quân sự để giữ vững nền độc lập. Trước tình hình hoạt động ráo riết của các loại kẻ thù, Đảng và Nhà nước Việt Nam mới thực hiện sách lược vừa nguyên tắc, vừa mềm dẻo. Đặt các đảng phái, tổ chức phản động ra ngoài vòng pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp bọn phản cách mạng, tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Ngày 3/10/1945, Bộ Ngoại giao ra “Thông cáo về Chính sách ngoại giao” khẳng định mục tiêu phấn đấu cho nền độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn của Việt Nam, hợp tác, thân thiện với các nước Đồng minh và các dân tộc láng giềng Trung Hoa, Lào, Campuchia. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư, công hàm cho những người đứng đầu chính phủ các cường quốc và tổ chức lớn là Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc, thông báo về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đồng thời tố cáo thực dân Pháp trở lại tiến hành chiến tranh xâm lược tại Đông Dương.
Vượt lên mọi khó khăn, ngày 6/1/1946, nhân dân cả nước nô nức đi bầu cử Quốc hội. Những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều đạt được sự tín nhiệm cao với số phiếu tập trung. Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân Hà Nội bầu với số phiếu cao nhất. Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thành công là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân. Tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nhất trí trao cho Người quyền thành lập Chính phủ mới - Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cùng với việc xây dựng, củng cố chính quyền nhà nước các cấp là việc củng cố thực lực cách mạng. Đảng và Nhà nước tổ chức cứu đói và đề phòng nạn đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động chiến dịch tăng gia sản xuất và cứu đói. Nhà nước tổ chức các đội lạc quyên cứu đói và quy định tiết kiệm lương thực, cấm nấu rượu lậu bằng gạo, ngô, đẩy mạnh trồng hoa màu ngắn ngày... Kết quả là nạn đói được đẩy lùi. Nhà nước còn tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý. Tổ chức “Tuần lễ vàng”, đồng bào cả nước đã góp được 370kg vàng, 60 triệu đồng. Nhà nước phát hành tiền giấy bạc Việt Nam, từng bước xây dựng nền tài chính độc lập.

Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra ngày 2/3/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Ảnh: Tư liệu
Việc xây dựng nền giáo dục mới, mà trước hết là thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân được Đảng và Nhà nước đặt thành một trong ba nhiệm vụ lớn nhất lúc bấy giờ. Mục tiêu là nâng cao dân trí nhằm giải phóng con người. Điều đó cũng khẳng định vai trò của văn hóa - giáo dục đối với nhân dân ta cũng thiết thực, cấp bách như nhu cầu độc lập, tự do. Quần chúng biết chữ mới nâng cao tinh thần và năng lực làm chủ đất nước, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Như vậy, ngoài việc bàn các biện pháp chống “giặc đói”, “giặc ngoại xâm” và thực thi các quyền tự do dân chủ thì các biện pháp chống “giặc dốt”, xóa nạn mù chữ đã được quan tâm và đặt ra ngay từ đầu, bởi vì đây là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách, cần phải được thực hiện tốt mới đảm bảo cho người dân lao động nâng cao được trình độ văn hóa, tham gia có hiệu quả vào các lĩnh vực quản lý đất nước. Chỉ trong một năm, ở Trung Bộ và Bắc Bộ đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Hệ thống giáo dục bước đầu được xây dựng. Tiếng Việt được chính thức dùng trong hệ thống trường học. Công tác y tế, vệ sinh phòng bệnh cũng được quan tâm...
Trong tình thế cách mạng vô cùng khó khăn, Đảng, Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên trì nguyên tắc, phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” với mục tiêu độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là trên hết, đã lãnh đạo quân và dân ta đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh; tiến hành xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị điều kiện và lực lượng bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đánh giá về thành công đó, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã khẳng định: “Lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hòa hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, giành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời”[2].
Hà Hải
-----------------
[1] Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam-Viện Lịch sử quân sự, Hoạt động của Quân đội Trung Hoa Dân quốc và đối sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (8-1945 - 9-1946), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, H, 2023, tr.113.
[2] Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, H, 1979, tr.31.