Xây dựng hệ sinh thái y tế số từ sổ sức khỏe điện tử
HNN - Sau hơn một năm triển khai trên ứng dụng VNeID, sổ sức khỏe điện tử (SKĐT) trở thành công cụ hữu ích giúp người dân theo dõi, quản lý thông tin sức khỏe chủ động, đồng thời góp phần quan trọng vào lộ trình chuyển đổi số y tế. Kết quả bước đầu cho thấy hiệu quả rõ rệt, song để phát huy tối đa giá trị, ngành y tế cần có định hướng dài hạn và đồng bộ.

Khám bệnh cho người dân tại Trung tâm Y tế Hương Trà
Hiệu quả
Điểm nổi bật nhất của SKĐT là sự tiện lợi. Người dân không còn phải mang theo nhiều loại giấy tờ khi đi khám, chữa bệnh (KCB), thay vào đó chỉ cần căn cước công dân gắn chip và ứng dụng VNeID. Trên đó đã tích hợp đầy đủ thông tin thẻ bảo hiểm y tế, sổ sức khỏe, giấy chuyển tuyến, giấy hẹn tái khám.
Tại Trung tâm Y tế Hương Trà, mọi quy trình KCB đã được triển khai qua VNeID, từ tiếp đón bệnh nhân, thăm khám, đến quản lý dữ liệu sức khỏe. BSCKII Lê Quang Hiệp, Giám đốc Trung tâm này nhấn mạnh: “Việc tích hợp SKĐT không chỉ giúp giảm thủ tục, tiết kiệm chi phí mà còn hỗ trợ bác sĩ tiếp cận toàn diện hồ sơ bệnh án, tiền sử bệnh tật, từ đó nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị”.
Cùng quan điểm, BSCKII Lê Đức Thịnh, Giám đốc Bệnh viện Răng Hàm Mặt Huế cho rằng việc số hóa hồ sơ sức khỏe và bệnh án điện tử giúp bệnh viện quản lý dữ liệu khoa học, minh bạch và thuận lợi hơn. Đặc biệt, với số lượng bệnh nhân lớn, việc áp dụng công nghệ thông tin đã góp phần giảm tải thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian cho cả thầy thuốc lẫn người bệnh.
Bà Nguyễn Thị Nga (70 tuổi, phường Thuận Hóa) chia sẻ: “Trước đây, mỗi lần đi khám, tôi phải mang theo một xấp giấy tờ, nhiều khi thất lạc hoặc quên mất bệnh án cũ, khiến bác sĩ mất thời gian trao đổi, nắm bắt thông tin. Từ khi có Sổ SKĐT, chỉ cần quét mã là thông tin bệnh sử, kết quả xét nghiệm, toa thuốc đều hiện đầy đủ. Tôi thấy rất tiện lợi và yên tâm hơn khi bác sĩ nắm rõ quá trình điều trị của mình”.

Cán bộ Trung tâm Y tế Hương Trà thao tác nghiệp vụ trên môi trường số
Một lợi ích khác được ghi nhận là khả năng liên thông dữ liệu. Hiện 100% cơ sở y tế trên địa bàn TP. Huế đã kết nối và chia sẻ dữ liệu SKĐT lên Cổng giám định Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Nhờ đó, việc thanh toán chi phí KCB bảo hiểm y tế minh bạch, hạn chế tình trạng trục lợi quỹ. Đồng thời, hệ thống còn hỗ trợ các cơ sở y tế phối hợp hiệu quả trong điều trị, đặc biệt đối với bệnh nhân chuyển tuyến.
Tính đến cuối tháng 8/2025, toàn thành phố đã có hơn 408.000 hồ sơ SKĐT, hơn 28.000 giấy chuyển tuyến và gần 74.000 giấy hẹn khám lại được liên thông trên VNeID. Đây là con số cho thấy sự lan tỏa mạnh mẽ của mô hình trong cộng đồng.
Tháo gỡ vướng mắc để triển khai đồng bộ
Quá trình triển khai SKĐT vẫn đối mặt một số thách thức. Trước hết là yêu cầu về thiết bị thông minh. “Không phải người dân nào cũng có điện thoại thông minh để cài đặt và sử dụng VNeID, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện kinh tế còn hạn chế. Vì vậy, chúng tôi phải triển khai song song cả 2 hình thức, đó là trên ứng dụng VNeID và căn cước công dân”, bác sĩ Hiệp chia sẻ.
Về kỹ thuật và quy trình, hiện vẫn tồn tại bất cập khi dữ liệu từ tuyến dưới gửi lên Cổng giám định Bảo hiểm xã hội chưa được đồng bộ, khiến các cơ sở tuyến trên khó nắm bắt thông tin giấy chuyển tuyến hoặc giấy hẹn tái khám của bệnh nhân. Việc hiển thị dữ liệu trên VNeID cũng có độ trễ, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận, điều trị.
Một khó khăn khác là tính pháp lý của dữ liệu SKĐT trong thanh toán, giám định bảo hiểm y tế. Một số cơ sở KCB chưa ký hợp đồng bảo hiểm y tế nên dữ liệu không được đồng bộ lên hệ thống, dẫn đến tình trạng thông tin trên SKĐT của bệnh nhân chưa đầy đủ.
Trước thực trạng đó, ngành y tế thành phố đã có nhiều văn bản báo cáo Bộ Y tế và UBND TP. Huế về những vướng mắc này để tìm giải pháp tháo gỡ, bảo đảm triển khai đồng bộ và hiệu quả hơn.
Xây dựng hệ sinh thái y tế số
Theo PGS.TS. Trần Kiêm Hảo, Giám đốc Sở Y tế TP. Huế, để sổ SKĐT phát huy tối đa hiệu quả trong quản lý và chăm sóc sức khỏe người dân, thời gian tới, ngành y tế thành phố cùng các đơn vị liên quan tiếp tục hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin. Trong đó, các bệnh viện, trung tâm y tế tiếp tục đầu tư, nâng cấp hệ thống phần mềm, bảo đảm khả năng liên thông dữ liệu nhanh chóng, chính xác, an toàn. Đồng thời, phối hợp với cơ quan công an và bảo biểm xã hội để tối ưu hóa quá trình đồng bộ dữ liệu lên VNeID.
Nhiệm vụ quan trọng nữa là tăng cường truyền thông và hướng dẫn người dân trong việc cài đặt ứng dụng VNeID. Song song với việc in ấn tài liệu, banner tuyên truyền, ngành y tế khuyến khích các cơ sở y tế bố trí cán bộ trực tiếp hướng dẫn người bệnh cài đặt, sử dụng SKĐT khi đến khám. Đây là cách làm thiết thực để tăng tỷ lệ người dân sử dụng, đặc biệt ở nhóm người cao tuổi hoặc ít tiếp cận công nghệ. Đồng thời, hướng tới xây dựng hệ sinh thái y tế số bằng việc đẩy mạnh triển khai sổ SKĐT, trong đó không chỉ dừng lại ở quản lý hồ sơ KCB mà còn mở rộng tích hợp dữ liệu tiêm chủng, bệnh án điện tử, kết quả xét nghiệm, đơn thuốc điện tử… Từ đó, hình thành “hồ sơ sức khỏe suốt đời” cho mỗi người dân, phục vụ công tác phòng bệnh, điều trị và quản lý sức khỏe cộng đồng hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh công nghệ ngày càng phát triển, sổ SKĐT không chỉ giúp người dân chủ động theo dõi sức khỏe mà còn tạo điều kiện để ngành y tế quản lý hiệu quả, minh bạch và khoa học hơn. Khi những khó khăn được tháo gỡ, định hướng chiến lược được triển khai đồng bộ, sổ SKĐT sẽ thực sự trở thành “chìa khóa vàng” trong chăm sóc sức khỏe toàn dân.