Xây dựng Chương trình hành động quốc gia về làm mát bền vững, giảm phát thải khí nhà kính
Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng Chương trình Hành động Quốc gia về Làm mát (NCAP) với mục tiêu phát triển các giải pháp làm mát bền vững, giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với điều kiện thời tiết ngày càng khắc nghiệt.
Vừa qua, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp cùng Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) thuộc Văn phòng Dịch vụ dự án Liên hợp quốc tổ chức cuộc họp tham vấn nhằm hoàn thiện chương trình hành động quốc gia này.

Quá trình đô thị hóa nhanh chóng khiến hiệu ứng “đảo nhiệt đô thị” ngày càng nghiêm trọng, khi nhiệt độ ở các khu vực đô thị cao hơn từ 3-5 độ C so với vùng nông thôn lân cận, do mật độ xây dựng lớn, thiếu cây xanh và sử dụng nhiều vật liệu hấp thụ nhiệt.
Hiện nay, khoảng 20% điện năng sản xuất trên toàn cầu được sử dụng cho nhu cầu làm lạnh và điều hòa không khí. Các nghiên cứu quốc tế cảnh báo nếu không kiểm soát hiệu quả, lượng phát thải khí nhà kính từ hoạt động làm mát sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030 và gấp ba vào năm 2100. Theo ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, biến đổi khí hậu đang diễn biến rất phức tạp và nghiêm trọng.
Báo cáo mới nhất của Tổ chức Khí tượng Thế giới công bố tháng 1/2025 khẳng định năm 2024 là năm nóng nhất trong lịch sử với nhiệt độ cao kỷ lục trên đất liền và đại dương, cùng nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan ảnh hưởng sâu rộng.
Tại Việt Nam, nhiều tỉnh, thành phố đã ghi nhận mức nhiệt cao nhất từ trước đến nay, điển hình như Đông Hà (Quảng Trị) với nhiệt độ lên đến 44 độ C, đây là mức cao nhất kể từ năm 1976.
Quá trình đô thị hóa nhanh chóng khiến hiệu ứng “đảo nhiệt đô thị” ngày càng nghiêm trọng, khi nhiệt độ ở các khu vực đô thị cao hơn từ 3-5 độ C so với vùng nông thôn lân cận, do mật độ xây dựng lớn, thiếu cây xanh và sử dụng nhiều vật liệu hấp thụ nhiệt.
Điều này làm nhu cầu sử dụng thiết bị làm mát tăng mạnh, kéo theo tiêu thụ điện năng trong lĩnh vực làm mát hiện chiếm khoảng 25,2% tổng điện năng quốc gia với hơn 71,4 TWh, dự kiến tăng gấp ba lần vào năm 2050.
Bên cạnh đó, việc sử dụng nhiều môi chất lạnh trong ngành làm mát góp phần làm suy giảm tầng ô-dôn và tăng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Vì vậy, việc quản lý phát thải trong lĩnh vực này trở thành yêu cầu cấp thiết đối với Chính phủ Việt Nam trong nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu.
Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ qua việc tham gia các sáng kiến toàn cầu như quản lý vòng đời chất Fluorocarbon, Liên minh Tăng cường hiệu quả làm mát (2020), cam kết Làm mát Toàn cầu (2023) và ban hành Quyết định 496/QĐ-TTg ngày 11/6/2024 về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, đồng thời đề ra các giải pháp làm mát bền vững phù hợp với đặc điểm đô thị và nông thôn.
Lĩnh vực làm mát xanh được xác định là ngành trọng điểm đóng góp trực tiếp vào việc giảm phát thải khí nhà kính theo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).
Hiện Cục Biến đổi khí hậu đang hợp tác chặt chẽ với các đối tác quốc tế như ETP, Ủy ban Kinh tế xã hội châu Á - Thái Bình Dương Liên hợp quốc (ESCAP) và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) để xây dựng chương trình NCAP tổng thể và toàn diện. Chương trình sẽ giúp quản lý hiệu quả các chất theo Nghị định thư Montreal về bảo vệ tầng ô-dôn, thúc đẩy chuyển đổi sang công nghệ làm mát các-bon thấp, tiết kiệm năng lượng, góp phần đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Ông John Robert Cotton, Phó Giám đốc ETP nhấn mạnh, NCAP tập trung giảm phát thải khí nhà kính qua các hoạt động làm mát xanh, bền vững, bao gồm các giải pháp làm mát đô thị, hỗ trợ cộng đồng dễ tổn thương ở nông thôn và cải thiện chuỗi cung ứng thuốc, thực phẩm.
Còn theo ý kiến của bà Đặng Hồng Hạnh, Giám đốc Điều hành Công ty CP Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC), NCAP được xây dựng trên nền tảng pháp luật hiện hành về biến đổi khí hậu, với lộ trình giảm tiêu thụ HFC phù hợp Bản sửa đổi Kigali của Nghị định thư Montreal.
Dự kiến chương trình sẽ giúp giảm tiêu thụ điện khoảng 10 TWh vào năm 2030 và 69 TWh vào năm 2050, tương đương công suất của bốn nhà máy điện lớn. Qua đó, giảm 97% lượng khí nhà kính trong lĩnh vực làm mát vào năm 2050, tương đương 7,8 triệu tấn CO₂ năm 2030 và 20 triệu tấn CO₂ năm 2050. Khi kết hợp với lưới điện xanh từ năng lượng tái tạo, mức giảm phát thải sẽ còn hiệu quả hơn.
Tại buổi tham vấn, các chuyên gia đã tập trung thảo luận, làm rõ tính khả thi của chương trình, dự báo nhu cầu làm mát quốc gia, đề xuất sáng kiến hợp tác quốc tế trong chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và các mô hình cộng đồng làm mát bền vững.
Trước đó, tại Hội thảo “Phổ biến Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn và chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát”, PGS-TS.Nguyễn Việt Dũng, Phó Hiệu trưởng Trường Cơ khí, Đại học Bách Khoa Hà Nội, đồng thời là Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Lạnh và Điều hòa Không khí Việt Nam nhấn mạnh vai trò quan trọng của lĩnh vực làm lạnh trong điều hòa không khí trong việc góp phần gây hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu.
Ông Dũng cho biết, dự báo tiêu thụ điện cho lĩnh vực làm lạnh sẽ tăng mạnh, từ mức 15-16% năm 2026 lên đến 30% vào năm 2030. Nguyên nhân đến từ quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng, cùng với sự phát triển của công nghệ số và công nghiệp 4.0, đòi hỏi ngày càng nhiều thiết bị làm mát cho lưu trữ và truyền tải dữ liệu. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải thúc đẩy chuyển đổi công nghệ làm mát bền vững, tiết kiệm năng lượng để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Đáng chú ý, theo ông Dũng, các chất làm lạnh hiện nay có tiềm năng gây nóng lên toàn cầu cao gấp hàng nghìn đến hàng chục nghìn lần so với nhiều loại khí khác.
Mặc dù quy mô ngành làm lạnh có vẻ hạn chế, nhưng đóng góp của nó vào tổng phát thải khí nhà kính là rất lớn và dự kiến có thể chiếm tới 20% tổng lượng phát thải vào năm 2030. Do vậy, chuyển đổi sang công nghệ tiết kiệm năng lượng và tăng cường đào tạo kỹ thuật viên trong lĩnh vực này là giải pháp then chốt.
Về phía cơ quan quản lý, đại diện Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc lộ trình loại trừ HCFC, nhóm chất làm suy giảm tầng ô-dôn được sử dụng trong ngành làm lạnh và bắt đầu quản lý các chất HFC từ năm 2024.
Cơ sở sản xuất và sử dụng thiết bị chứa các chất kiểm soát này phải xây dựng kế hoạch chuyển đổi, thu gom, vận chuyển, tái chế và tiêu hủy theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Việt Nam cam kết không sản xuất, nhập khẩu hay tiêu thụ các chất cấm và sản phẩm chứa chất này, đồng thời sẽ hoàn tất loại trừ HCFC vào năm 2040 và giảm tiêu thụ HFC lên đến 80% vào năm 2045. Các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi công nghệ bảo vệ tầng ô-dôn sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính phù hợp.
Quản lý môi chất lạnh theo chuỗi vòng đời, từ sản xuất, sử dụng đến thu hồi và tái chế được coi là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giảm thiểu tác động môi trường.
Các doanh nghiệp được khuyến khích thu hồi và tái chế chất làm lạnh khi thiết bị hết hạn sử dụng để tránh rò rỉ ra môi trường, đồng thời chuyển đổi sang các loại môi chất thân thiện hơn.
Việc thúc đẩy áp dụng công nghệ xanh và quản lý môi chất lạnh được hỗ trợ mạnh mẽ bởi các chính sách quốc gia và cam kết quốc tế. Kế hoạch quốc gia về quản lý và loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn vừa được Thủ tướng phê duyệt vào tháng 6/2024 đánh dấu bước tiến quan trọng trong chiến lược bảo vệ môi trường của Việt Nam.
Tính từ khi tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal vào năm 1994, Việt Nam đã loại trừ thành công 220 triệu tấn CO2 tương đương nhờ các hoạt động quản lý chất làm suy giảm tầng ô-dôn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về trách nhiệm và nỗ lực.
Việt Nam cũng tích cực tham gia các sáng kiến toàn cầu như Liên minh Tăng cường hiệu quả làm mát của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc và Sáng kiến quản lý vòng đời các chất Fluorocarbon của Nhật Bản với mục tiêu giảm phát thải toàn cầu từ hoạt động làm mát ít nhất 68% vào năm 2050.
Quá trình chuyển đổi công nghệ và quản lý môi chất lạnh là hành trình dài, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng.
Tuy nhiên, với cam kết mạnh mẽ, chính sách rõ ràng và sự nỗ lực không ngừng nghỉ, Việt Nam hoàn toàn có thể hướng tới một tương lai phát triển ngành làm lạnh bền vững, hiệu quả, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế xanh và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.