Xây dựng chiến lược chinh phục thị trường Halal cho doanh nghiệp Việt

Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển ngành Halal mang tính toàn diện, đồng bộ và có tầm nhìn dài hạn.

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Xuân Anh - TTXVN

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Xuân Anh - TTXVN

Thị trường Halal có quy mô ngày càng lớn nhưng doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa khai thác hiệu quả. Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển ngành Halal mang tính toàn diện, đồng bộ và có tầm nhìn dài hạn.

Đây là nội dung được các chuyên gia thảo luận tại Hội thảo “Xu hướng thị trường và cơ hội xuất khẩu nông sản, thực phẩm chế biến Việt Nam vào các thị trường Halal” do Bộ Công Thương phối hợp với Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) tổ chức, ngày 5/9.

*Không gian tăng trưởng lớn

Ngành công nghiệp Halal đang nổi lên như một lĩnh vực kinh tế đầy tiềm năng, với quy mô thị trường ước tính vượt 2.000 tỷ USD và phục vụ hơn 2,2 tỷ người tiêu dùng hồi giáo trên toàn thế giới. Bà Hồ Thị Quyên, Phó Giám đốc ITPC cho biết: Không chỉ giới hạn trong cộng đồng hồi giáo, các sản phẩm và dịch vụ Halal ngày càng được người tiêu dùng toàn cầu ưa chuộng, nhiều quốc gia không thuộc khối Hồi giáo nhưng có cộng đồng hồi giáo lớn như Pháp, Đức, Anh và Hoa Kỳ cũng đang ghi nhận xu hướng gia tăng nhu cầu đối với sản phẩm Halal. Đây là cơ hội để sản phẩm Việt Nam, đặc biệt đối với các nhóm hàng mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh như nông sản, thực phẩm chế biến, mỹ phẩm và dược phẩm có thể tận dụng các thế mạnh để tìm kiếm thị phần, mở rộng kênh phân phối, xây dựng thương hiệu gắn với giá trị Halal, từng bước nâng cao năng lực đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Tương tự, bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Phó Giám đốc Trung tâm giao lưu văn hóa và Xúc tiến thương mại Việt Nam - Ả-rập chia sẻ: Quy mô thị trường tiêu dùng Halal khu vực Trung Đông và Bắc Phi hiện đạt 240- 254 tỷ USD và dự báo sẽ đạt tới 380 tỷ USD vào năm 2030. Lĩnh vực nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt là Trung Đông bởi các quốc gia này hầu như không phát triển được ngành sản xuất, trồng trọt, chế biến. Một tiềm năng khác, Trung Đông cũng là cửa ngõ của thế giới, cầu nối giúp doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường khác.

Ở khu vực Đông Nam Á, ông Phạm Thế Cường, Tham tán Thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Indonesia thông tin: Indonesia là quốc gia có số lượng dân số hồi giáo lớn nhất thế giới với gần 245 triệu người, (chiếm 87,2% tổng dân số cả nước). Tốc độ tăng dân số hàng năm khá cao, bình quân khoảng 1,1%/năm. Tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh với khoảng 50 triệu người là động lực thúc đẩy tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế của quốc gia này.

Để đáp ứng nhu cầu của người dân, Indonesia nhập khẩu một lượng lớn hàng hóa mỗi năm, trong đó có các sản phẩm Halal. Ước tính giá trị tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ Halal của Indonesia có quy mô trên 330 tỷ USD. Tính riêng chi tiêu thực phẩm và đồ uống là 155,3 tỷ USD, chiếm 11,1% trong tổng quy mô thị trường thực phẩm halal toàn cầu. Indonesia cũng nằm trong top 5 nước hồi giáo có số lượt khách du lịch ra nước ngoài nhiều nhất (11,7 triệu khách) và chi tiêu cho du lịch khoảng 6,6 tỷ USD mỗi năm. Ngoài ra, đây cũng là thị trường tiêu dùng hàng dược phẩm, mỹ phẩm, thời trang Halal lớn nhất nhì thế giới.

Tuy nhiên, theo ông Phạm Thế Cường, kim ngạch xuất khẩu các phẩm Halal của Việt Nam sang Indonesia mới đạt khoảng 54 triệu USD trong năm 2024, chỉ chiếm gần 1% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Indonesia và cũng rất khiêm tốn so với tổng kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm Halal của Indonesia là 14 tỷ USD. Xuất khẩu các sản phẩm Halal từ Việt Nam sang thị trường Indonesia hiện vẫn chủ yếu tập trung vào nhóm bánh kẹo, thực phẩm chế biến của các thương hiệu nước ngoài có nhà máy sản xuất tại Việt Nam. Số lượng công ty xuất khẩu nội địa của Việt Nam chưa thực sự nhiều, thương hiệu các sản phẩm Halal của Việt Nam chưa thực sự rõ nét tại thị trường Indonesia.

* Cần chiến lược rõ ràng

Theo các chuyên gia, ngành công nghiệp Halal được dự báo sẽ tiếp tục phát triển mạnh tại các thị trường châu Á, Trung Đông và châu Phi, tạo ra cơ hội lớn cho xuất khẩu nhiều mặt hàng của Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức trong khai thác thị trường này.

Tiến sĩ Ir. H. Afriansyah Noor, Phó Chủ tịch Cơ quan Chính phủ Bảo đảm Halal Indonesia – BPJPH phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Xuân Anh - TTXVN

Tiến sĩ Ir. H. Afriansyah Noor, Phó Chủ tịch Cơ quan Chính phủ Bảo đảm Halal Indonesia – BPJPH phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Xuân Anh - TTXVN

Bà Hồ Thị Quyên nêu vấn đề, Việt Nam hiện vẫn chưa có nhiều tổ chức chứng nhận Halal được công nhận rộng rãi ở cấp độ quốc tế. Hoạt động cấp chứng nhận Halal trong nước còn mang tính phân tán, thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan và đơn vị liên quan. Điều này gây ra không ít trở ngại cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận các thị trường xuất khẩu Halal, đặc biệt ở các khâu xác minh chứng nhận, kiểm định chất lượng và vận hành logistics chuyên biệt theo yêu cầu nghiêm ngặt của các quốc gia Hồi giáo.

Mặt khác, phần lớn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến thực phẩm và nông sản Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, với năng lực tài chính hạn chế, trình độ quản trị còn yếu, nguồn nhân lực thiếu kiến thức chuyên sâu về tiêu chuẩn Halal. Thiếu thông tin và thiếu định hướng chiến lược về thị trường Halal cũng khiến nhiều doanh nghiệp chưa chủ động tham gia và khai thác hiệu quả thị trường đầy tiềm năng này.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, Giám đốc Marketing, Văn phòng chứng nhận Halal (HCA Việt Nam) cho biết, thách thức của Việt Nam trong phát triển công nghiệp Halal là sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia có kiến thức toàn diện về chuỗi giá trị Halal từ sản xuất, chế biến, đóng gói, logistics đến tiếp thị và phân phối. Nếu không tháo gỡ được nút thắt này sẽ là một rào cản lớn trong quá trình chuyên nghiệp hóa và hội nhập sâu của ngành Halal Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng một chiến lược phát triển ngành Halal mang tính toàn diện, đồng bộ và có tầm nhìn dài hạn. Cụ thể, phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy hợp tác quốc tế một cách chủ động, hiệu quả.

Ông Phạm Thế Cường thì cho rằng, trở ngại lớn nhất hiện nay khi xuất khẩu sản phẩm Halal là thủ tục và thời gian cấp chứng nhận Halal thường bị kéo dài, chi phí cấp chứng nhận cho sản phẩm nhập khẩu còn cao. Thêm vào đó, quy định, quy trình sản xuất các sản phẩm Halal khá nghiêm ngặt, phức tạp. Trong khi đó, số lượng doanh nghiệp Việt Nam quan tâm phát triển sản phẩm Halal và tiếp cận thị trường một cách bài bản vẫn còn hạn chế. Để phát triển, xuất khẩu sản phẩm Halal vào Indonesia nói riêng và các thị trường Hồi giáo nói chung, doanh nghiệp cần tập trung vào việc cải thiện chất lượng và độ an toàn của các sản phẩm Halal để giành được lòng tin của người tiêu dùng.

“Các doanh nghiệp cần xem xét hình thành liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp các nước có ngành công nghiệp Halal phát triển. Điều này không chỉ góp phần nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp về tiêu chuẩn Halal mà còn gia tăng cơ hội xuất khẩu; hình thành chuỗi cung ứng khép kín từ vùng cung ứng nguyên liệu - sản xuất đến nơi phân phối và xuất khẩu theo tiêu chuẩn Halal. Đối với thị trường mới, doanh nghiệp có thể thông qua nhà phân phối nội địa đã có sẵn các giấy phép nhập khẩu, am hiểu thị trường, thủ tục để tiếp cận với hệ thống các cửa hàng tạp hóa truyền thống, hệ thống phân phối hiện đại giúp gia tăng sự hiện diện trên thị trường”, ông Phạm Thế Cường gợi ý giải pháp./.

Xuân Anh/vnanet.vn

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/xay-dung-chien-luoc-chinh-phuc-thi-truong-halal-cho-doanh-nghiep-viet/386533.html
Zalo