Xạo xự bán sới bỏ xừ
Trong Nam có từ 'xạo xự', chưa cần phải tra từ điển, ta hoàn toàn có biết đó là từ dùng chỉ những ai nói dóc, nói láo, bốc phét là do có từ 'xạo' sờ sờ ra đó. 'Xự' là từ nhằm nhấn mạnh hơn sắc thái của xạo để trở thành xạo xự, không thế còn có từ xạo ke, tương tự láo/ láo toét/ láo khoét, nói khoác/ nói khoác lác…
Về từ xạo xự, trên báo Phụ nữ tân văn số 180 ra ngày 8/12/1932, trong bài báo "Kêu trời bằng "thằng" xét ra có lý không?" có đoạn: "Vài năm nay là cái năm gì, mà trong báo giới quốc văn ở Nam kỳ ta thiệt là xảy ra lắm chuyện! Nhớ lại từ Tết năm ngoái cho đến nay đã gần tới Tết nữa, thì hết chuyện nọ đến chuyện kia, trong làng báo ta cứ xạo xự hoài!".
Xét từ đoạn văn này, thêm một lần nữa ta thấy xạo xự chính là xạo bởi câu kế tiếp cho biết rõ: "Có nhiều chuyện thiệt là không đáng xảy ra, không ngờ xảy ra, thế mà cũng đã xảy ra được đi, thì nghĩ có chướng?" Chướng quá đi chứ, vì chuyện không đáng/ không ngờ xẩy ra vẫn xẩy ra là do đâu? Do có kẻ xạo xự phao tin láo mà ra đó thôi.

Tranh chèo của danh họa Bùi Xuân Phái.
Láo/ xạo để làm gì?
"Nói láo mà chơi, nghe láo chơi" là câu thơ của Tản Đà, dịch từ nguyên tác chữ Hán của Vương Sĩ Trinh, xét ra đúng với tâm thế của người nói và nghe chuyện nói láo. Bởi láo ở đây ở nhằm mục đích cho vui, chơi thôi mà, chứ không có ý gì khác, chỉ gây cười vì ai ai cũng biết tỏng là bịa, chứ không có thật. Có đôi câu cửa miệng, câu vè từ đời tám hoánh, thí dụ, "Láo thiên láo địa/ Láo từ ngoài Sịa láo vô". Sịa là địa danh của một làng ở phía đông bắc thành phố Huế. Tương tự trong Nam có câu "Láo thiên láo địa/ Láo từ Bà Rịa láo lên".
Tại sao Sịa, Bà Rịa xuất hiện trong ngữ cảnh này? Thật khó giải thích.
Về từ láo, không chỉ hàm ý bịa ra chuyện không có thật, làm bậy bạ, dối trá nhưng cũng có hiểu là hỗn láo, xấc xược, phách lối… Dù cũng là láo nhưng giải thích thế nào là "bánh mè láo" cũng không dễ. Khi nói "làm lếu làm láo" là làm qua loa, làm có lệ, không chú tâm hoàn thành công việc; thế nhưng ở trong Nam ngày xưa khi nói "làm lớn làm láo" lại hiểu "làm lớn phải lãnh việc lớn" - theo “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895). Về nói láo, trong trong tập “Cổ thi khôi hài” dẫn giải của ông đốc học Trần Văn Tý, người Vĩnh Long in tại miền Nam năm 1939, có bài thơ mà nay ít ai biết:
Lội ngang qua biển Thái Bình Dương,
Mấy chỗ sâu hung ngập tới sườn.
Đạp núi Thái Sơn đà bể nát,
Lấp vàm Lữ Thuận dám bằng trơn.
Vua Tàu thấy giỏi mời ăn yến,
Ngọc Đế khen hay thỉnh dạo vườn.
Ở tại Bắc băng hồi tảng sáng,
Đến chiều đi bộ tới Nam phương.
Với từ "lội", ta nhớ đến câu tục ngữ "Có phước đẻ con hay lội, có tội đẻ con hay trèo", thì lội có nghĩa là bơi. Tuy nhiên, "Lội ngang qua biển Thái Bình Dương", là đi bì bõm dưới nước một cách khó nhọc, ở đây "Mấy chỗ sâu hung ngập tới sườn", sâu hung là sâu lắm nhưng ở đây chỗ nước sâu nhất, sâu lắm chỉ tới sườn thì cần gì phải bơi? Lưu ý, ta còn có từ "lặn lội", không lẽ kết hợp cả hai động tác vừa hụp sâu xuống dưới mặt nước và cũng vừa bơi? Dù cho là thế nhưng lại nhằm chỉ động tác như người xưa đã sử dụng trong truyện thơ nôm Phan Trần:
Cùng nàng xe ngựa dời chân
Nước non lặn lội ba tuần tới nơi
Hiểu theo nghĩa bóng là chỉ sự xa xôi, gian nan, vất vả, dầm mưa dãi nắng, ra dáng trăm bề cực khổ.
Khi nói "Ở tại Bắc băng hồi tảng sáng" tức lúc rạng sáng, thế nhưng cũng từ "tảng" lại hàm nghĩa mất đi, tan đi, thí dụ tục ngữ có câu "Có phước tảng tài, vô phước tảng mạng". Tục ngữ, cổ ngữ gia ngôn (1897) của ông Paulus Của Huỳnh Tịnh giải thích: "Sống đặng thì là có phước, có câu rằng: Mình sống hơn đống vàng". Ta hiểu khi gặp sự không may nào đó, nếu có phước chỉ hao tốn, mất đi tiền của, ngược lại thì mất mạng. Câu này phản ánh được quan niệm về tiền bạc của cải nói chung: "Người còn thì của cũng còn/ Miễn là nhân nghĩa vuông tròn thì thôi", là không thể sánh với phước đức của ông bà cha mẹ, nhân nghĩa trong đối nhân xử thế.
Một khi nói láo, lại nói cái điều ai cũng là biết láo tỏng tòng tong chẳng khác gì "lật bài ngửa", không thèm giấu giếm thì không còn nói láo nữa, chính là nói trạng, "nổ", nói phét, bóc phét... Không sao cả, miễn là tạo ra tiếng cười cho người nghe, muốn thế, người ta phải chọn cách nói thế nào đó để dẫn đến bất ngờ. Chẳng hạn, sau đây là bài vè nói láo ở Nam Bộ mà ít ai biết:
Ông Ba ở đất lưu lai
Tài hay nói láo không ai dám bì
Ngó ra ngoài biển vậy thì
Tàu đồng đương chạy, nắm thì như không
Lên non vác đá hàn sông
Gặp hùm mà bắt đem về cỡi chơi
Từ "hàn" xuất hiện trong câu "Lên non vác đá hàn sông", có gì khó hiểu chăng? Theo “Đại từ điển tiếng Việt” (1999): "Hàn: (1). Nối liền các đầu mối kim loại bằng cách làm nóng chảy: hàn khung xe, hàn thép, hàn hơi, hàn xì. (2). Gắn kín chỗ thủng, nứt vỡ: hàn nồi, vết thương đã hàn miệng" - hiểu như vậy hợp lý trong ngữ cảnh này? Không. Từ "hàn" ở Nam Bộ xưa còn có nghĩa là ngăn/ ngăn sông lại, chận lại dòng chảy. Sức người mà làm được thế, quả là cực láo. Ở khổ này, chúng ta bỗng nhớ đến cặp luận trong một bài thất ngôn nọ:
Lội ngay ra biển lôi tàu lại,
Chạy tuốt lên non bắt cọp về.
Nghe thế, ắt ta phải cười. Tiếng Việt mình lắt léo mà không xí lắt léo, thoạt nghe "bắt cọp" nhưng rồi ngay lập tức người ta lại nghĩ ngay đến từ khác nhạy cảm bá cháy. Lý thú của tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt còn ở đó nữa, là ngầm hiểu mà cười như trong trường hợp này.
Như đã nói xạo xự chính là xạo, thế nhưng nếu "xự" đổi thành "xứ", ta thấy gì? Thí dụ, nhìn thấy thằng con lớn tồng ngồng nhưng lại "xe duyên kết tóc" tri âm, tri kỷ với "bác thằng bần", bà mẹ răn đe: "Còn cứ sát phạt đen đỏ, có ngày phải bỏ xới mà đi đó nghen con". "Bỏ xới" là "bỏ xứ", bỏ quê nhà, quê cha đất tổ đi đến một nơi khác. Xứ là nhằm chỉ một cõi, vùng, miền nào đó trong một nước:
Hỡi cô da đỏ má hồng
Cô đi theo chồng cô bỏ xứ cha
Bây giờ tuổi tác đã già
Xứ chồng cô bỏ xứ cha cô về
Từ "xứ", ta nói trại thành "xới". Mà, xới còn có nghĩa là "Bới, moi và trộn lớp dưới với lớp trên cho đều: Xới cơm, xới đất; đào, bới, xới, dỡ" - theo “Việt Nam tự điển” (1970). Ta hiểu là làm cho tơi ra, rời ra. "Xới" cũng là "xớ", nếu ta xét trong cách nói phổ biết nhằm chỉ hành động ăn chận, ăn bớt: "Ăn xớ ăn bớt/ Ăn xới ăn bớt", chẳng hạn trong hồi ký "Hơn nửa đời hư" (NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh -1992), cụ Vương Hồng Sển cho biết thời Pháp thuộc có hạng người: "Tưởng mình ở trên đầu trên cổ đồng bào, ngày thường ăn xới ăn bớt của dân, và khi vô cửa quan thì vâng vâng dạ dạ, khúm núm lạy từ Tây mũi lõ đế lon ton (planton) tòa bố" (tr.75).
Khi mình có vật dụng gì đó, bèn bảo người khác: "Mua không? Tui bán xới đó", tức bán rẻ, bán đổ, bán tháo; nhưng những thứ ấy một khi bỏ mặc, không thèm ngó ngàng tới, người ta lại nói "bỏ xới" là không thèm quan tâm đến nữa.
Do hiểu "xới" là cách nói trại của "xứ" nên có ý kiến cho rằng "xừ" trong "bỏ xừ" cũng là một cách đọc trại của "xứ", và lập luận: "Như thế, khi nói: "Bỏ xừ rồi, phải bán xới thôi" là đã vô tình dùng điệp ngữ để tăng độ hùng hổ của ý định". Cách lý giải này, có đúng không? Hoàn toàn không.
"Xừ" là do mượn từ tiếng Pháp. Mượn như thế nào? Tầm nguyên từ điển Việt Nam của nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ cho biết: "Xừ (sieur): ông, người". Và còn hướng dẫn xem thêm từ "Mông-xừ: (monsieur) gồm mon = của tôi; sieur = ông, tiếng xưng hô trong xã giao đối với người đàn ông, qua lời nói hoặc thư từ". Do là từ mượn nên cách phát âm còn có thể là me-xừ, mơ-xừ, xừ. Cách gọi này, trong ngữ cảnh nào đó, còn thể hiện sự tinh nghịch, hài hước, thân mật lẫn trêu chọc đối với người ngang tuổi hoặc lớn tuổi hơn. Chẳng hạn, nhà thơ Tú Mỡ trêu hai ông Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh:
Nước Nam có hai người tài
Thứ nhất xừ Vĩnh, thứ hai xừ Quỳnh
Với nghĩa này, ta có hai cách ghi "xừ/ sừ", không phân biệt rõ ràng. Tuy nhiên, không chỉ có thế. Khi cụ Vương Hồng Sển viết: "Cãi thầy, ôm gà ra đá thì chỉ có món "thua bỏ xừ": mười độ mất tiền đủ mười" ("Phong lưu cũ mới" - NXB TP Hồ Chí Minh tái bản năm 1991, tr.143) - rõ ràng, "xừ" đã lái qua nghĩa khác, cũng tựa như một người thản thốt: "Bỏ xừ! Tháng này sếp lại nợ lương". Câu này, có thể thay thế bằng "Bỏ mẹ/ bỏ tía/ bỏ cha/ bỏ bu/ bỏ bố! Tháng này sếp lại nợ lương". Rõ ràng, "xừ" không còn nghĩa ông như ban đầu vay mượn tiếng Pháp.
Trở lại với từ "xạo xự", đoạn in trên báo Phụ nữ tân văn số 180 ra ngày 8/12/1932, vừa lý giải là xạo, láo, bốc phét, khoác lác, nói điều không thật…, xin nghiêm túc hỏi rằng, cách giải thích này, có đúng không? Hoàn toàn không. Ta hiểu sao về từ "xự"? “Đại từ điển tiếng Việt” (1999) giải thích: "Cung thứ hai của gam năm cung giọng hồ là hồ, xự, xang, xê, cống", thật ra không chỉ có thế, còn có thêm một nghĩa nữa mà “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) ghi nhận: "Xự/ Xạo xự: Rộn ràng, làm rộn". Câu "trong làng báo ta cứ xạo xự hoài" in trên báo Phụ nữ tân văn là hiểu theo nghĩa này, là bàn tán rộn ràng, xôn xao, nhộn nhạo, không liên quan gì đến xạo.