Xác lập Cơ sở dữ liệu quốc gia về GD-ĐT: 'Xương sống' cho chuyển đổi số
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục sửa đổi quy định về hoạt động khoa học, công nghệ của cơ sở giáo dục.

Một buổi hoạt động Câu lạc bộ Công nghệ thông tin, Trường THPT chuyên Nguyễn Trãi (Hải Dương). Ảnh: NTCC
Trong đó, bổ sung quy định về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, xác lập Cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục - đào tạo là “xương sống” của ngành trong chuyển đổi số.
Bước đi quan trọng
Đồng tình với những nội dung sửa đổi Luật Giáo dục liên quan đến hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, ông Lê Văn Lục - Hiệu trưởng Trường THPT chuyên Nguyễn Trãi (Hải Dương) cho rằng: Bổ sung quy định này (tại Điều 19) là cần thiết, kịp thời trong bối cảnh giáo dục Việt Nam đứng trước yêu cầu chuyển mình mạnh mẽ để đáp ứng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Những nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung không chỉ giúp nâng cao chất lượng dạy và học mà còn tạo nền tảng để xây dựng một hệ sinh thái giáo dục thông minh, hiện đại, lấy người học làm trung tâm.
Cùng đó, việc xác lập cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục và đào tạo là bước đi chiến lược nhằm tạo ra hệ thống dữ liệu tập trung, thống nhất, giúp nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của các cấp quản lý giáo dục. Đây là “xương sống” cho chuyển đổi số của ngành, góp phần giảm thủ tục hành chính, minh bạch hóa thông tin và hỗ trợ phân tích, dự báo, ra quyết định dựa trên dữ liệu lớn.
Cũng liên quan đến vấn đề này, một nội dung đáng chú ý khi điều chỉnh Luật Giáo dục là quy định về việc cấp văn bằng số (tại Điều 12). Theo ông Lê Văn Lục, đây là xu hướng tất yếu để đồng bộ với chính sách “dịch vụ công trực tuyến toàn trình” của Chính phủ. Văn bằng số giúp chống giả mạo, thuận tiện cho người học trong sử dụng văn bằng trên môi trường số và tạo điều kiện để tích hợp với các nền tảng học tập, tuyển dụng, quản lý nhân sự hiện đại.
Bà Ngô Thị Phương Lan - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan đến hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hợp lý, nhằm thực hiện các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục - đào tạo góp phần thúc đẩy chuyển đổi số toàn ngành, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý Nhà nước. Ngoài ra, việc này giúp nâng cao chất lượng các dịch vụ công trực tuyến, giảm thiểu tối đa hồ sơ, giấy tờ cho người dân khi thực hiện các dịch vụ công.
Đồng tình với quy định mới, coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục, ông Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách, Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nhận định: Dự thảo Luật đã bổ sung cụ thể định hướng:
Thúc đẩy kết nối nghiên cứu với thực tiễn, áp dụng AI có kiểm soát trong quản trị và dạy học, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục. Việc cấp văn bằng, chứng chỉ số là bước tiến quan trọng để thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn diện. Những quy định đó phù hợp với xu hướng phát triển giáo dục toàn cầu và Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp 4.0.

Ảnh minh họa INT.
Cần bổ sung quy định hỗ trợ tài chính
Góp ý cho nội dung này, ông Bùi Hoài Sơn đề nghị nhấn mạnh thêm cơ chế khuyến khích các trường đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, tập huấn cán bộ, giáo viên; đồng thời giao Bộ GD&ĐT cùng phối hợp xây dựng tiêu chuẩn đảm bảo an toàn an ninh thông tin cho cơ sở dữ liệu quốc gia.
Từ góc nhìn cơ sở giáo dục đại học, bà Ngô Thị Phương Lan đề xuất, Chính phủ cần bổ sung quy định về hỗ trợ tài chính cho hoạt động chuyển đổi số, chẳng hạn như: “Nhà nước hỗ trợ kinh phí triển khai chuyển đổi số, ưu tiên hỗ trợ trường đại học công lập, theo các chương trình chuyển đổi số quốc gia như Quyết định 131/QĐ-TTg năm 2022 hoặc các văn bản liên quan”.
Lý do, chuyển đổi số đòi hỏi đầu tư lớn về hạ tầng, phần mềm. Hỗ trợ kinh phí giúp các trường đại học công lập, với nguồn ngân sách hạn chế, có thể triển khai hiệu quả, kịp thời, đảm bảo kết nối dữ liệu giữa ngành Giáo dục với các cơ sở dữ liệu quốc gia.
Từ thực tiễn cơ sở giáo dục phổ thông nói chung, Trường THPT chuyên Nguyễn Trãi (Hải Dương) nói riêng, ông Lê Văn Lục góp ý: Cần quy định rõ lộ trình thực hiện và trách nhiệm các cấp, đơn vị giáo dục trong việc triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia và văn bằng số, tránh tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ hoặc triển khai hình thức. Cùng đó, nên có hướng dẫn chi tiết về bảo mật thông tin, an toàn dữ liệu trong môi trường số, nhất là khi liên quan đến thông tin cá nhân và dữ liệu giáo dục.
Về ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, nên bổ sung nội dung về tiêu chuẩn đạo đức, giới hạn sử dụng AI trong kiểm tra - đánh giá, ra đề, quản lý lớp học... để bảo đảm tính nhân văn, tránh lệ thuộc hoặc lạm dụng công nghệ một cách máy móc. Đồng thời, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức khoa học, công nghệ trong phát triển giải pháp số cho giáo dục, tạo điều kiện để xã hội hóa, huy động nguồn lực từ bên ngoài vào công cuộc chuyển đổi số của ngành Giáo dục.
Tôi thấy cần cân nhắc viết lại khoản 2, 3 và 4 Điều 19 trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục. Lý do, không thể quy định chung nhất như vậy cho các cơ sở giáo dục.
Đối với cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, yêu cầu cao nhất đối với họ chỉ là vận dụng các kết quả nghiên cứu trong R&D (Research and Development - Nghiên cứu và Phát triển). Đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chủ yếu là triển khai kết quả R&D. Với cơ sở giáo dục đại học thì bao gồm cả vận dụng, triển khai, sản sinh, phát triển R&D. - TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến