Wilhelm Tranow - bậc thầy mật mã của tình báo Đức Quốc xã

Wilhelm Tranow (sinh năm 1891) là một nhà mật mã học người Đức, trước và trong suốt Thế chiến II ông đã làm việc trong Cục giám sát của Đức Quốc xã (ĐQX), đồng thời chịu trách nhiệm phá vỡ một số hệ thống liên lạc vô tuyến đã được mã hóa mà cụ thể là Mã Hải quân vốn được Bộ Hải quân Anh sử dụng dùng để mã hóa những tín hiệu hoạt động, và Mật mã Hải quân dùng để mã hóa những tín hiệu hành chính.

Ông Tranow được đánh giá là một trong những nhà phân tích mật mã học quan trọng nhất của Cục B. Có rất ít thông tin về đời tư, khi nào và nơi nào ông được sinh ra, hoặc ông mất ở đâu. Sử gia người Mỹ, David Kahn đã nhấn mạnh tầm quan trọng lịch sử chiến tranh là việc phụ thuộc vào sự thành công của mật mã và giải mã của Tranow, bằng lời trích dẫn: “Nếu có người trong cơ quan tình báo Đức giữ chìa khóa để làm nên chiến thắng trong Thế chiến II thì đó chính là Wilhem Tranow”.

Nhà mật mã học người Đức, Wilhelm Tranow.

Nhà mật mã học người Đức, Wilhelm Tranow.

Trong Thế chiến I và giữa hai cuộc chiến

Buổi ban đầu Wilhelm Tranow làm việc trong vai trò kỹ thuật viên vô tuyến trên boong chiến hạm Pommern (SMS Pommern là một thiết giáp hạm của đế quốc Đức, một trong số 5 chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm Deutschland được chế tạo cho Hải quân đế quốc Đức từ năm 1903 đến năm 1906).

Năm 1914, trong lúc đang trực ca trên tàu tuần dương Breslan thì Tranow đột nhiên nhận được một thông điệp được mã hóa, ông đã chuyển bức điện này cho Bộ chỉ huy hạm đội nhưng họ phản hồi là không thể đọc được nó.

Là người rất say mê tìm hiểu về mật mã và mật mã học, Tranow liền bắt tay giải những thông điệp được mã hóa và chuyển tiếp nó cho bộ chỉ huy hạm đội. Nhưng vốn tính nghi hoặc, thiếu khẩn trương và kém hiểu biết nên Bộ chỉ huy hạm đội đã yêu cầu Tranow phải tránh xa những vấn đề nhạy cảm thay vì cố gắng cải thiện mật mã. Trong giai đoạn cuối của Thế chiến I, Tranow được điều động và tổ chức chặn bắt và giải mã hải quân (Hải quân đế quốc Đức - Cục tình báo Hải quân Đức - GNIS) ở Neumunster.

Tại Neumunster, Tranow tham gia vào việc giải mật mã 3 chữ cái của Hải quân Anh. Với thất bại trong chiến tranh và Hiệp ước Versailles, đơn vị phá mã đặt tại Neumunster bị đóng cửa. Ngày 28/4/1919, một cơ quan mới toanh được thành lập ở Berlin với 8 cựu nhân viên phân tích mật mã, Tranow nằm trong số họ.

Cuối năm 1919, Tranow đã tái cấu trúc lại bộ mã điện tín khổng lồ của chính phủ Anh (GTC, một bộ mã và mật mã chuyên biệt được các cơ quan chính phủ sử dụng để bảo mật và rút gọn các thông điệp điện báo, chẳng hạn như thông điệp từ Bộ Chiến tranh và Bộ Bưu điện.

Các mã này được thiết kế để ngăn chặn việc nghe lén và giảm chi phí bằng cách thay thế các từ và cụm từ thông dụng bằng những từ mã hoặc số ngắn hơn. Điều này khác với các mã hóa ký tự chung như mã Morse và mã Baudot, vốn được sử dụng cho mục đích truyền tải thông thường) được Bộ Hải quân Hoàng gia Anh dùng để thực hiện những báo cáo về chiến hạm.

Sau đó, trong thập niên 1920, họ đã sử dụng những mã bị phá vỡ nhằm cho phép người Đức theo dõi pháo hạm Anh trên sông Dương Tử (Trung Quốc). Năm 1927, Tranow bắt đầu nghiên cứu mật mã Hải quân Pháp liên quan đến Các công trình quân sự (cơ sở hạ tầng trên bộ như doanh trại, trại lính, căn cứ và trường quân sự; hoặc tàu chiến (tàu sân bay, khinh hạm, tàu ngầm) và tàu hỗ trợ hải quân.

Thuật ngữ này cũng bao gồm các công trình lưu trữ thiết bị và vũ khí) và tàu chiến (tàu quân sự được thiết kế cho các nhiệm vụ chiến đấu, phòng thủ hoặc hỗ trợ. Chúng có thể là tàu nổi hoặc tàu ngầm và được chia thành nhiều loại chính như tàu sân bay, tàu khu trục, tàu hộ tống, tàu hộ tống nhỏ, tàu ngầm và tàu chiến đổ bộ. Thuật ngữ "tàu" thường được sử dụng trong Hải quân để chỉ tàu chiến). Từ đầu năm 1932, Tranow bắt đầu nghiên cứu Các kỹ thuật tín hiệu mật mã, cuốn sách hé lộ nhiều tình tiết về những chiến thuật của người Pháp.

Năm 1932, Tranow theo dõi hoạt động của một đoàn tàu vận tải Anh trên Đại Tây Dương bằng cách phá mã hải quân 4 chữ cái hiện hành. Những thành công buổi đầu này đã khiến cho đơn vị của ông dần dà phát triển mạnh và khi đó nó có tên là B-Dienst - Cục quan sát), còn được gọi là xB-Dienst, B-Dienst chuyên phân tích mật mã và giải mã (giải mã) lưu lượng tin nhắn của đối phương và các quốc gia trung lập, cũng như kiểm soát an ninh các quy trình và máy móc then chốt của Hải quân ĐQX. B-Dienst đóng vai trò quan trọng trong việc định hình các hoạt động của Wehrmacht trong các trận chiến Na Uy và Pháp vào mùa xuân năm 1940, chủ yếu nhờ những thành công trong việc phân tích mật mã mà nó đạt được trước các mật mã Hải quân Anh ban đầu còn kém an toàn.

B-Dienst đã phá vỡ mật mã Anh vào tháng 10/1941, vốn được sử dụng để mã hóa mọi thông tin liên lạc giữa nhân viên hải quân, cho các đoàn tàu vận tải Bắc Đại Tây Dương của Đồng minh. Điều này cho phép B-Dienst cung cấp thông tin tình báo tín hiệu có giá trị cho Hải quân Đức trong Trận chiến Đại Tây Dương.

Máy mã Typex của quân Đồng Minh.

Máy mã Typex của quân Đồng Minh.

Từ giữa đến cuối thập niên 1930, hơn 80% các thông điệp mã hóa của người Pháp đã bị đọc trộm. Từ giữa năm 1935, Adolf Hitler - khi đó vẫn coi Anh là một đồng minh tiềm năng - đã hạ lệnh cho toàn bộ Bộ Tổng tham mưu chuyển hướng kế hoạch sẵn sàng tác chiến chống lại Pháp, và ra lệnh chuyển nỗ lực phá mã chính tại B-Dienst sang Pháp. Hải quân Đức - trước đó vẫn coi đối thủ tiềm năng chính là Anh - đã đón mệnh lệnh từ Hitler với thái độ ngờ vực.

Khi nghe lệnh, Tranow đã cười: “Tôi không muốn đi sâu vào chính sách cao siêu, song tôi chỉ muốn nói một điều rằng: “Người Anh đã báo cáo hoạt động tàu thuyền trên toàn cầu của họ thông qua những mật mã này. Giả sử như Hạm đội Địa Trung Hải của họ tràn qua eo biển Gibraltar, rồi tiến vào Đại Tây Dương, hoặc qua eo biển Manche, hay thậm chí vào Bắc Hải. Chả lẽ các anh không muốn biết trước việc này sao?”. Hải quân Đức đã xem xét lại lập trường của mình và cho phép Tranow tiếp tục công việc của mình, song nó lại trái lệnh của Hitler.

Tháng 9/1935, Tranow và các phụ tá đã có bước tiến lớn trong việc phá mã được dùng thông dụng nhất của Hải quân Hoàng gia Anh: Mật mã hải quân 5 chữ số dùng như phương thức so sánh các tuyến đường của một tàu buôn, và đã công bố trên Báo cáo vận chuyển hàng tuần Lloyds, kèm những báo cáo được mã hóa.

Ảnh hưởng ngày càng tăng của Tranow cũng như tầm quan trọng ngày càng tăng từ chuyên ngành của Tranow đã đảm bảo cho sự trỗi dậy ở B-Dienst và sau năm 1936, ông đã được giao nhiệm vụ điều hành toàn bộ bộ phận phân tích mật mã ngay cả khi Tranow không phải là thành viên Quốc xã.

Trong Thế chiến II

Đầu Thế chiến II, Tranow biết được mọi vị trí của các lực lượng hạm đội chính. Ngày 11/9/1939, điều này đã mang lại kết quả gần như ngay lập tức khi B-Dienst đọc được một bức điện của Anh chỉ ra những điểm tập trung của đoàn tàu vận tải Z. Sự việc này buộc Bộ Hải quân Đức cấp tốc điều động một tàu ngầm U-31 để nã ngư lôi vào chiếc tàu hơi nước Avienmore vào ngày 16/9/1939.

Đến tháng 3/1940, Tranow và các đồng đội đã xâm nhập thành công Bộ mã hải quân thương mại Anh (BMNC, “Bộ mã Hải quân Thương mại Anh" thường được hiểu là Bộ luật Thực hành An toàn Lao động cho thuyền viên thương mại (COSWP), một tài liệu quy định các yêu cầu pháp lý đối với tàu treo cờ Anh.

Tài liệu này cung cấp hướng dẫn chi tiết về sức khỏe và an toàn lao động, bao gồm các chủ đề như quy trình khẩn cấp, phòng ngừa cháy nổ, xử lý thủ công, chất nguy hiểm và các hoạt động cụ thể như vận hành nâng hạ. Chủ tàu có nghĩa vụ pháp lý phải đảm bảo tất cả thuyền viên trên tàu của họ có thể dễ dàng tiếp cận bộ luật này).

Một tháng sau đó Mật mã hành chính Hải quân Hoàng gia Anh (RNAC, là một cuốn sổ mã gồm năm chữ số được Hải quân Hoàng gia Anh sử dụng cho liên lạc, đặc biệt là với tàu buôn. Đây là một loại mã kém an toàn hơn, được sử dụng cho cả tín hiệu chưa được mã hóa (không bảo mật) và tín hiệu đã được mã hóa (bảo mật), nhưng cuối cùng đã bị các chuyên gia giải mã Đức phá vỡ vào tháng 4/1940, dẫn đến việc nó được thay thế bằng một hệ thống an toàn hơn gọi là Mã Hải quân vào tháng 8/1940) cũng bị phá.

Năm 1938, Tranow bắt đầu làm việc với Mật mã hải quân số 1, và đến mùa Xuân 1940, Tranow làm việc với Mật mã Hải quân số 1 của Anh với hiệu quả cao mà từ đó giúp cho B-Dienst có thể đọc được mọi thứ quan trọng dẫn đến Chiến dịch Stratford và những thông điệp hé lộ các kế hoạch của cuộc Viễn chinh Anh - Pháp chống lại Na Uy đặt dưới cái tên ngụy trang là Chiến dịch Stratford.

Đức nắm quyền chủ động và tiến hành xâm lược Na Uy vào ngày 9/4/1940. Trong suốt chiến dịch, mật mã luôn được đọc rõ ràng nhất. Dữ liệu chính xác về những biện pháp đối phó của Anh như các sân bay đổ bộ, cùng sự xuất hiện của các tàu vận tải ở Harstad đã được người Đức biết trước điều này, tạo thời cơ cho các lực lượng vũ trang Đức hành động thích hợp. Việc giải mã cho phép Tranow đọc được phần lớn lưu lượng hải quân của Anh cho đến ngày 20/8/1940, khi Mật mã Hải quân số 2 của Anh được trình làng.

Từ tháng 9/1941, Tranow đã tái tạo lại sách mã của Mật mã Hải quân số 2. Tháng 2/1942, các nhà phân tích mật mã của B-Dienst đã phá được Mật mã đoàn xe 4 chữ số Mỹ - Anh - Canada (Mật mã Hải quân số 3). Cùng thời gian đó Bộ Hải quân Đức đã tung ra phiên bản 4 bánh của cỗ máy Enigma mà ngay tức khắc máy mã này trở nên không thể đọc được đối với các nhân viên tại Nhà số 8 của Trường mật mã chính phủ Bletchley Park.

Bên trong B-Dienst, một bộ phận của Cục tình báo hải quân Đức.

Bên trong B-Dienst, một bộ phận của Cục tình báo hải quân Đức.

Sau đó vào năm 1942, Tranow đã giải được Mật mã tàu buôn Đồng Minh và Anh (BAMS, là sự kết hợp giữa mã đoàn tàu, được sử dụng để nhận dạng và tổ chức đoàn tàu, và tiền tố tàu, dùng để xác định loại tàu. Ví dụ về mã đoàn tàu bao gồm PQ/QP cho các đoàn tàu Bắc Cực hoặc AS cho các tuyến đường Địa Trung Hải, trong khi các tiền tố tàu như RMP (Gói thư Hoàng gia) và RMS (Tàu thư Hoàng gia) là tên gọi chung cho các tàu buôn Anh và Đồng minh).

Tháng 3/1942, với việc chiếm được sách mã Mật mã hải quân số 4 từ một tàu buôn ở vùng biển phía Bắc đã giúp cho Tranow thực hiện những cuộc đột nhập hạn chế vào Mật mã Hải quân số 4 của Anh trong tháng 10/1942. Tháng 6/1943 với việc ra đời Mật mã Hải quân số 5 và sau đó là việc xuất hiện máy mã Typex không thể giải mã trong tháng 11/1943 cũng đánh dấu chấm hết việc giải mã Đồng Minh từ phía Tranow và các đồng nghiệp ở B-Dienst.

Sau chiến tranh, Wilhelm Tranow là một cá nhân có giá trị cao đến mức Tranow bị tổ chức TICOM (Ủy ban Tình báo Mục tiêu, là một dự án bí mật của quân Đồng Minh, được thành lập trong Thế chiến II nhằm tìm kiếm và thu giữ các tài sản tình báo của Đức, đặc biệt là trong lĩnh vực mật mã và tình báo tín hiệu.

Chiến dịch này hoạt động cùng với các nỗ lực khác của Đồng Minh phương Tây nhằm khai thác thông tin khoa học và công nghệ cũng như nhân sự của Đức trong và sau chiến tranh, bao gồm Chiến dịch Paperclip (tìm hiểu về tên lửa), Chiến dịch Alsos (tìm hiểu về thông tin hạt nhân) và Chiến dịch Surgeon (tìm hiểu về điện tử hàng không) của quân Đồng Minh bắt giữ và thẩm vấn tại Flensburg bởi một nhóm người gọi là Đội 6 TICOM trong 2 ngày 24 và 25/5/1945. Trong suốt thập niên 1950, Wilhelm Tranow đã làm việc cho Hãng thông tấn Đức DPA (Deutsche Press-Agentur).

Văn Chương (Tổng hợp)

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/wilhelm-tranow-bac-thay-mat-ma-cua-tinh-bao-duc-quoc-xa-i786101/