Vượt qua… 'lời dạy của Yàng', hồi sinh đại ngàn
Hai anh Hồ Ước và Hồ Văn Cu Ta (đều là người dân tộc thiểu số Vân Kiều, ở huyện vùng cao Đakrông, tỉnh Quảng Trị), từng rất tin vào 'lời dạy của Yàng', rằng làm nương, sống rẫy, bám rừng thì phải theo đúng lệ cũ. Đó là phát, đốt, cốt, trỉa, bởi có như vậy, mùa màng mới tốt tươi, người dân mới no đủ.
Nhưng hai người đàn ông ấy, từng đi qua mất mát và lầm lỡ, đã chọn bước qua lời dạy đó của Yàng. Họ không phải để phủ nhận tổ tiên mà để giữ lấy núi rừng bằng một cách khác.
Mất cánh tay trái và mùa xanh từ sỏi đá
Một buổi sáng của 39 năm về trước, vùng đồi Khe Ho ở bản Làng Cát bỗng rền vang tiếng nổ chát chúa của một quả mìn M14 do Mỹ sản xuất, còn sót lại sau chiến tranh. Trong khoảnh khắc kinh hoàng ấy, cậu bé Hồ Ước, mới lên tám, ngã gục, máu từ cánh tay trái bê bết thấm đỏ cỏ rừng. Quả mìn tưởng chừng như đã cắt đứt tương lai của một đứa trẻ Làng Cát. Nhưng hóa ra, đó lại là nơi bắt đầu một cuộc đời không khuất phục.

Anh Hồ Văn Cu Ta mở rộng đất để gây dựng thêm rừng.
“Người lành lặn làm một, tôi phải làm gấp ba lần”, anh nói, giọng bình thản như thể đã quá quen với những đợt mưa rừng trút qua vai áo rách. Từ sau tai nạn, anh sống với nỗi tủi thân len lỏi trong từng bữa cơm, từng ánh mắt xót xa của người thân. Thế nhưng, cũng từ những buổi chiều nhìn đàn trâu gặm cỏ trên đồi, trong lòng người đàn ông một tay dần trỗi dậy khát vọng không để cuộc đời chìm trong tiếc nuối.
Năm 2003, khi vợ sinh con đầu lòng, nghèo túng bủa vây, Hồ Ước đã chọn lên lại chính đồi Khe Ho, nơi từng găm mảnh nổ vào cơ thể anh, để mở lối sống mới: phát cỏ trồng sắn, trồng keo và gầy dựng nên những cánh rừng.
Khi những luống sắn đầu tiên lên xanh, không ít người già trong khóm Làng Cát đến hỏi nhỏ: “Mày không sợ Yàng quở trách à?”. Nhưng Hồ Ước chỉ lặng lẽ tiếp tục, bởi anh biết, “lời dạy của Yàng” nếu thật sự linh thiêng thì đó là lời dạy giữ lấy rừng, giữ lấy sinh kế bền vững, chứ không phải những vòng xoáy “phát, đốt, cốt, trỉa” khiến núi mòn, suối cạn.
Gần hai mươi năm qua, cứ ba mùa sắn lại một chu kỳ trồng keo. Rừng mọc lên từ đôi tay không còn nguyên vẹn, từ niềm tin của người đàn ông không khuất phục số phận. Những cây tràm hoa vàng, keo tai tượng nay đã đủ lớn để bán, đủ xanh để giữ đất, giữ nước cho làng bản dưới chân đồi.
Từ “lâm tặc” đến người “trả nợ”… cho rừng
Từ bản Làng Cát, theo hướng về xuôi chừng 10km là bản Luồi, xã Mò Ó (Đakrông) nằm bên tay trái. Ở đây, cũng giống như nhiều người khác, Hồ Văn Cu Ta từng có một thời gian dài sống bằng rừng, sống đúng nghĩa là lấy đi từ rừng từng khúc gỗ, từng thân tre, từng dây mây. “Khi đó tôi nghĩ đơn giản, rừng là của trời, của chung. Ai đến trước thì hưởng phần trước”, anh trầm ngâm kể lại.
Những ngày ấy không có ranh giới giữa sinh tồn và phá hoại. Người dân nghèo, rừng gần bản. Cu Ta và nhiều thanh niên bản Luồi chặt gỗ không nghĩ ngợi, có khi bị thuê dắt đường cho “lâm tặc” vào rừng sâu. Cho đến một ngày, khi lũ về quét sạch bản dưới, nước ngập cả nhà sàn, cuốn trôi ruộng vườn, người dân mới giật mình: “Có phải rừng giận không? Có phải đất đang đòi lại nợ xưa?”.
Từ ám ảnh đó, Cu Ta bắt đầu hành trình trả nợ, không bằng lời hứa mà bằng hành động. Anh gom góp mua lại đất rẫy, đất đồi trọc bỏ hoang, từng bước phát dọn, đào hố, trồng lại rừng. Bắt đầu chỉ 1ha, rồi mở rộng lên 3, 5, đến nay là hơn 10ha. Và không chỉ trồng, Cu Ta còn thuyết phục nhiều người khác trong bản làm theo mình. Đặc biệt, sau khi được bà con tin tưởng, bầu làm Trưởng bản Luồi, anh không quản ngại ngày đêm, mưa nắng, cứ đều đặn mỗi ngày 2 lần cùng với những thanh niên khác trong bản tổ chức đi tuần tra, bảo vệ rừng trên địa bàn. “Mình phải làm gương thì dân bản mới nghe”, anh nói, ánh mắt cương nghị hằn những nếp nhăn của nắng gió vùng cao.
Nhờ vậy, bản Luồi giờ đây không còn bóng dáng “lâm tặc”. Thay vào đó là những triền đồi phủ xanh keo, tràm, là tiếng cười trẻ con vang bên các mô hình sinh kế mới: nuôi bò, trồng gừng, làm du lịch cộng đồng…
Ông Lê Đại Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện Đakrông chia sẻ, Yàng trong tâm thức người Vân Kiều, Pa Cô, không chỉ là vị thần canh giữ mùa màng mà còn là biểu tượng của trật tự thiêng liêng giữa con người và núi rừng. Trong quá khứ, “lời dạy của Yàng” gắn với nghi lễ phát nương, đốt rẫy. Nhưng giờ đây, khi đất bạc màu, rừng đau đá, Yàng nếu còn, hẳn cũng đang thầm nhắc: “Hãy trồng lại rừng!”.
“Hồ Ước và Hồ Văn Cu Ta, hai con người, hai số phận, cùng gặp nhau ở một điểm: dám đi ngược truyền thống, để giữ lại chính điều quý nhất của truyền thống, đó là sự hài hòa giữa người và rừng. Họ không viết bản trường ca, không gióng trống kêu gọi ai. Họ chỉ lặng lẽ đào hố, trồng cây, khuyên răn người bản như từng được cha anh khuyên răn mình. Và chính sự lặng lẽ ấy đã mang lại tiếng nói mạnh mẽ nhất”, ông Lợi nhìn ra cánh rừng xanh thẳm ở bản Luồi, bộc bạch.
Tôi rời bản Luồi khi ánh hoàng hôn bắt đầu buông trên triền núi. Những luống keo xanh mướt nối nhau xuống tận con suối dưới chân đồi, như những hàng chữ thầm lặng mà bền bỉ, do chính những con người nơi đây từng đau đáu trả nợ rừng, viết nên bằng cả cuộc đời. Còn “lời dạy của Yàng”, phải chăng chính là tiếng gió rì rào mát rượi giữa đại ngàn xanh biếc đang thực sự hồi sinh mạnh mẽ từng ngày!.