Vướng pháp lý, hợp tác xã sở hữu tài sản vẫn khó tiếp cận vốn
Tài sản không được thế chấp, hồ sơ khó hoàn thiện khiến nhiều hợp tác xã dù có ý tưởng và thị trường vẫn 'đứng hình' trước cánh cửa ngân hàng.
“Rào cản kép” khiến hợp tác xã khó tiếp cận vốn
Những ngày cuối năm, khi nhiều hợp tác xã đang gấp rút chuẩn bị cho kế hoạch đầu tư mới, câu chuyện tiếp cận vốn lại một lần nữa trở thành nỗi trăn trở dai dẳng. Đặc biệt với những mô hình đang nỗ lực chuyển từ sản xuất thủ công sang chế biến sâu, nhu cầu vốn trung và dài hạn không chỉ cấp bách mà còn mang tính sống còn. Thế nhưng, nghịch lý khó gỡ đã tồn tại nhiều năm là tài sản thì có, nhưng giấy tờ pháp lý lại thiếu, khiến cánh cửa tín dụng đóng chặt trước phần lớn hợp tác xã.
Hợp tác xã đầu tư nông trại xanh và phát triển bò Ba Vì (Hà Nội) là một điển hình. Dù có kế hoạch mở rộng quy mô, đầu tư dây chuyền chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng việc tìm kiếm nguồn vốn lại là hành trình gian nan. Ông Tạ Việt Hùng, Giám đốc Hợp tác xã, chia sẻ mong muốn có một cơ chế thông thoáng hơn, nơi những thủ tục không cần thiết được cắt giảm, giúp hợp tác xã có cơ hội hiện thực hóa định hướng sản xuất. Những kỳ vọng về vốn vay từ ngân hàng hay quỹ tín dụng nhiều khi chỉ nằm ở mức “mong” khi phía hợp tác xã không thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp lý theo yêu cầu của tổ chức tín dụng.

Chăn nuôi bò tại Hợp tác xã đầu tư nông trại xanh và phát triển bò Ba Vì (Hà Nội). Ảnh: TL
Câu chuyện ở Ba Vì không phải cá biệt. Tại Thái Nguyên, Hợp tác xã Nông sản sạch Việt Nam, một mô hình được kỳ vọng tạo bước thay đổi trong sản xuất nông nghiệp tại địa phương cũng phải đối diện thực tế tương tự. Dù sở hữu quy trình chế biến độc đáo và từng có kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp xuất khẩu chuối, ban lãnh đạo hợp tác xã này vẫn bị “dội gáo nước lạnh” khi hồ sơ vay vốn bị từ chối vì lý do hợp tác xã mới thành lập, chưa đủ kinh nghiệm. Lời hứa sẽ xem xét lại sau 1 năm chỉ càng khiến những người đứng đầu trăn trở: “Không có vốn thì hợp tác xã làm gì để tồn tại trong quãng thời gian đó, người nông dân bám vào đâu và bao nhiêu cơ hội sẽ trôi qua?”.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối tháng 11/2025, tổng dư nợ cho vay đối với hợp tác xã và Liên hiệp hợp tác xã toàn hệ thống chỉ đạt khoảng 6.428 tỷ đồng, tương đương 0,04% tổng dư nợ cả nước. Một tỷ lệ quá nhỏ so với số lượng và nhu cầu của hơn 20.000 hợp tác xã trên phạm vi toàn quốc.
Còn thống kê của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, cho thấy, hiện tại chỉ khoảng 20% số hợp tác xã trên cả nước tiếp cận được vốn vay từ các tổ chức tín dụng.
Điều dễ nhận thấy là đa số hợp tác xã nông nghiệp có tài sản “hữu hình” như nhà xưởng, máy móc, vùng nguyên liệu. Nhưng phần lớn số đó lại không có giấy tờ hợp pháp hoặc không đáp ứng yêu cầu tài sản bảo đảm theo chuẩn ngân hàng. Tài sản chung của hợp tác xã thường không tách bạch rõ ràng với tài sản cá nhân của thành viên. Khi cần thế chấp, tài sản cá nhân lại khó xử lý khi phát sinh rủi ro, khiến ngân hàng “ngại” cho vay.
Trong khi đó, yêu cầu về năng lực tài chính và uy tín tín dụng lại không phải hợp tác xã nào cũng có thể đáp ứng. Nhiều tổ chức tín dụng muốn hợp tác xã phải có vốn chủ sở hữu tham gia dự án ở mức 20 - 30%. Nhưng với phần lớn hợp tác xã có vốn điều lệ nhỏ, điều này vượt ngoài khả năng. Bên cạnh đó, hồ sơ sản xuất kinh doanh của nhiều hợp tác xã chưa đạt chuẩn, báo cáo tài chính chưa hoàn thiện, hạch toán chưa theo quy định, không có hóa đơn, chứng từ minh bạch.
Ngay cả những chương trình tín dụng chính sách cũng có giới hạn. Như chia sẻ của bà Hoàng Thị Chương, Phó Giám đốc Ban Tín dụng sinh viên và các đối tượng chính sách khác (Ngân hàng Chính sách xã hội), mức cho vay tối đa trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ 2 tỷ đồng/dự án, tương đương không quá 100 triệu đồng/người lao động được tạo việc làm. Các chương trình cho vay chuỗi giá trị, dù có lãi suất ưu đãi, nhưng mức vay tối đa 2 tỷ đồng vẫn còn quá nhỏ so với nhu cầu thực tế của các HTX muốn phát triển theo hướng hiện đại và tuần hoàn.
Với những mô hình cần đầu tư hàng chục tỷ đồng cho dây chuyền chế biến hay kho bảo quản, hạn mức vài tỷ đồng là không đủ để tạo ra thay đổi. Cánh cửa tín dụng vì thế càng hẹp lại, đẩy hợp tác xã vào tình trạng “đủ ý tưởng, thiếu tiền để làm”.

Đến cuối tháng 11/2025, tổng dư nợ cho vay đối với hợp tác xã và Liên hiệp hợp tác xã toàn hệ thống chỉ đạt khoảng 6.428 tỷ đồng. Ảnh: Duy Minh
“Chìa khóa” tiếp cận vốn cho hợp tác xã
Sức ép từ thực tế khiến Chính phủ phải có điều chỉnh quan trọng. Nghị định 156/2025/NĐ-CP đã nâng hạn mức vay không tài sản bảo đảm của hợp tác xã lên tối đa 5 tỷ đồng. Đây là bước chuyển đáng kể, tạo điều kiện cho các đơn vị thiếu tài sản thế chấp vẫn có cơ hội tiếp cận vốn. Tuy nhiên, việc vay vốn không tài sản bảo đảm vẫn yêu cầu hợp tác xã phải có uy tín tín dụng, hồ sơ minh bạch và phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Những yêu cầu này, trên thực tế, lại là điều nhiều hợp tác xã còn yếu.
Chính vì vậy, các chuyên gia cho rằng cần phải hình thành cơ chế bảo lãnh tín dụng quốc gia dành cho hợp tác xã. TS. Trần Thanh Long, Giám đốc Học viện Ngân hàng (Phân viện Phú Yên), cho rằng, Việt Nam có thể học hỏi mô hình của Hàn Quốc và Đài Loan. Điều quan trọng không chỉ nằm ở quỹ hỗ trợ, mà ở việc bắt buộc áp dụng bảo hiểm tín dụng để chia sẻ rủi ro, giảm áp lực lên ngân sách và buộc các tổ chức bảo hiểm thương mại tham gia đánh giá dự án hợp tác xã.
Mô hình này nếu áp dụng thí điểm cho Quỹ Hỗ trợ Phát triển hợp tác xã sẽ tạo ra “lớp bảo lãnh thứ nhất”, giúp nhiều hợp tác xã có đầu ra ổn định và tham gia chuỗi giá trị có thể vay được vốn lớn hơn nhiều so với năng lực của quỹ.
Ở góc độ ngân hàng thương mại, đại diện Agribank cho biết, đang triển khai nhiều gói tín dụng đặc thù cho hợp tác xã, nhất là các đơn vị tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ngân hàng hỗ trợ lãi suất tối thiểu 1%/năm so với thông thường và tăng cường cho vay theo chuỗi giá trị. Tuy vậy, đại diện Agribank cũng thẳng thắn cho rằng năng lực quản trị yếu, thiếu tài sản bảo đảm, thiếu minh bạch tài chính, quy mô sản xuất nhỏ… đang là những nguyên nhân chính khiến hợp tác xã khó tiếp cận vốn.
Chính vì vậy, ngân hàng đề xuất bốn nhóm giải pháp: Đẩy mạnh tín dụng nông nghiệp nông thôn; triển khai cho vay theo mô hình chuỗi giá trị; phát triển tín dụng xanh; và đơn giản hóa thủ tục, số hóa quy trình tín dụng cho hợp tác xã. Song song với đó, các hợp tác xã cần chủ động nâng quy mô bằng cách thu hút thêm thành viên hoặc sáp nhập theo ngành nghề, địa bàn.
Nhìn ở bình diện rộng hơn, Nghị quyết 68-NQ/TW đã xác định trục “hợp tác xã, doanh nghiệp, Nhà nước” là trọng tâm của kinh tế hợp tác. Khi kinh tế nông nghiệp chuyển từ tăng trưởng bằng số lượng sang tăng trưởng bằng giá trị gia tăng, liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp không còn là lựa chọn mà là yêu cầu. Muốn mở đường tín dụng lâu dài, HTX không chỉ cần tài sản, mà cần tính pháp lý, tính minh bạch và một mô hình quản trị đủ tin cậy để ngân hàng có thể chia sẻ rủi ro.
TS. Trần Thanh Long, Giám đốc Học viện Ngân hàng (Phân viện Phú Yên): Đã đến lúc phải thay đổi tư duy từ “tài sản thế chấp” sang “quản trị rủi ro bằng cơ chế bảo lãnh và bảo hiểm”. Việc tạo ra một hệ sinh thái bảo lãnh tín dụng có bảo hiểm tín dụng không chỉ là giải pháp tài chính mà còn là sự công nhận vai trò và uy tín của các hợp tác xã làm ăn hiệu quả.
































