Vụ SJC đòi cựu tổng giám đốc bồi thường bằng vàng: Luật quy định ra sao?
Theo chuyên gia, bị hại có quyền yêu cầu đề nghị hình thức bồi thường, tòa án xem xét và quyết định hình thức, mức bồi thường phù hợp với tính chất của thiệt hại.
Như PLO đưa tin, HĐXX TAND TP.HCM đang nghị án kéo dài phiên xử sơ thẩm vụ án xảy ra tại Công ty CP Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC), sẽ tuyên án vào ngày 30-9.
Được triệu tập tới tòa với tư cách vừa là bị hại vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Công ty SJC đã đề nghị tòa xem xét, tuyên buộc bị cáo Lê Thúy Hằng (cựu Tổng giám đốc SJC) cùng đồng phạm bồi thường thiệt hại bằng vàng với số lượng hơn 95 lượng vàng từ hành vi nâng định mức hao hụt trong gia công vàng miếng SJC cho Ngân hàng Nhà nước...
Từ đây, nhiều bạn đọc thắc mắc, pháp luật quy định ra sao về việc đòi bồi thường bằng vàng?

Các bị cáo trong phiên xét xử sai phạm xảy ra tại Công ty SJC. Ảnh: TRẦN MINH
Thiệt hại là vàng, có thể yêu cầu bồi thường vàng
Trao đổi với PLO, Ths Nguyễn Đức Hiếu, Đại học Quốc tế, ĐHQG TP.HCM, cho biết Điều 585 BLDS quy định thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Nguyên tắc này thể hiện mục tiêu của chế định bồi thường là khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại ở mức gần nhất với tình trạng ban đầu trước khi thiệt hại xảy ra.
Đồng thời, Khoản 1 Điều 585 BLDS cũng ghi nhận sự linh hoạt khi cho phép các bên thỏa thuận về hình thức bồi thường, có thể bằng tiền, bằng hiện vật, hoặc bằng việc thực hiện một công việc nhất định, cũng như phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần. Điều này mở ra khả năng, trong trường hợp thiệt hại liên quan đến một loại tài sản cụ thể (ví dụ vàng), người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường bằng chính loại tài sản đó thay vì chỉ nhận tiền, miễn là không trái pháp luật và được các bên thống nhất.
Theo Ths Hiếu, trong lĩnh vực hình sự, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại được ghi nhận như một phần của trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Điều 48 BLHS quy định, người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
BLHS không chỉ dừng lại ở việc dẫn chiếu sang BLDS mà còn trực tiếp khẳng định nghĩa vụ trả lại tài sản hoặc bồi thường bằng hiện vật, khi có thiệt hại cụ thể. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để khẳng định rằng, nếu thiệt hại là vàng, người bị hại hoàn toàn có quyền yêu cầu bồi thường bằng vàng mà không bị giới hạn ở việc nhận tiền.
Tòa có thể tuyên bồi thường bằng vàng để đảm bảo khôi phục nguyên trạng
Bên cạnh đó, BLTTHS đã bảo đảm quyền của người bị hại trong quá trình yêu cầu bồi thường. Tại Điều 62 BLTTHS quy định người bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường. Quyền đề nghị mức bồi thường và biện pháp bảo đảm bồi thường cho phép người bị hại tham gia trực tiếp vào việc xác định cách thức khắc phục thiệt hại.
Đây chính là cơ sở tố tụng để tòa án xem xét và quyết định hình thức, mức bồi thường phù hợp với tính chất của thiệt hại.
Ths Hiếu còn cho biết, một điểm cần lưu ý là việc xác định thời điểm bồi thường và loại tài sản bồi thường có ý nghĩa quyết định trong việc khôi phục đúng giá trị thiệt hại. Theo quy định chung của BLDS, thiệt hại được xác định tại thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm hoặc tại thời điểm giải quyết bồi thường tùy từng trường hợp cụ thể.
"Trong thực tiễn, khi thiệt hại liên quan đến tài sản có giá trị biến động mạnh như vàng, việc bồi thường bằng tiền tại thời điểm thiệt hại xảy ra có thể không phản ánh đúng giá trị thực tế tại thời điểm bồi thường. Do đó, để bảo đảm nguyên tắc khôi phục nguyên trạng, tòa án có thể xem xét buộc bồi thường bằng chính loại tài sản bị thiệt hại (vàng) thay vì chỉ quy đổi ra tiền" - Ths Hiếu nói.
Cạnh đó, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm thực hiện việc bồi thường, căn cứ Điều 357 BLDS thì phải chịu lãi suất chậm trả tính trên khoản tiền chậm bồi thường, tương ứng với thời gian chậm trả. Mức lãi suất này được xác định theo Điều 468 BLDS.
Tuy nhiên, do quy định về lãi suất chỉ áp dụng đối với nghĩa vụ trả tiền, nên nếu Tòa án tuyên bồi thường bằng hiện vật (ví dụ là vàng) cần đồng thời quy đổi giá trị vàng ra tiền tại thời điểm THA để làm căn cứ tính lãi suất chậm trả. Cách xử lý này vừa bảo đảm phù hợp quy định pháp luật, vừa bảo vệ quyền lợi thực chất của người bị thiệt hại trong trường hợp bên có nghĩa vụ cố tình kéo dài việc bồi thường.
Yêu cầu bồi thường căn cứ theo pháp luật dân sự
Pháp luật hình sự hiện hành không quy định cụ thể về việc áp dụng hay cơ sở xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra trong vụ án hình sự. Do đó việc giải quyết đối với yêu cầu bồi thường của SJC sẽ căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự.
Cụ thể, căn cứ theo Khoản 1 Điều 584 BLDS và Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 02/2022 HĐTP TAND Tối cao, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố: Có hành vi xâm phạm tài sản của người khác; có thiệt hại xảy ra là thiệt hại về vật chất; có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm.
Căn cứ Khoản 1 Điều 48 BLHS và Điều 30 BLTTHS, người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự.
Theo Điều 105 BLDS, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Trong vụ án xảy ra tại SJC, hành vi của mỗi bị cáo đã gây ra thiệt hại bao nhiêu khối lượng vàng và quy đổi thiệt hại ra số tiền cụ thể. Vì vậy, SJC có thể yêu cầu các bị cáo và những người có liên quan phải liên đới bồi thường thiệt hại cho SJC bằng cả vàng và tiền. Điều này phù hợp quy định tại điểm g khoản 2 Điều 62 BLTTHS, bị hại có quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường.
TS-LS Nguyễn Thị Kim Vinh