Vụ cổ đông kiện cựu chủ tịch công ty thủy điện: Hủy bản án phúc thẩm của tòa tỉnh Đắk Lắk

Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban thẩm phán hủy toàn bộ bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Đắk Lắk, giữ nguyên bản án sơ thẩm trong vụ kiện tranh chấp hợp đồng góp vốn.

Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng (nay là Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng) vừa có quyết định giám đốc thẩm trong vụ tranh chấp hợp đồng góp vốn. Nguyên đơn là ông Nguyễn Trương Tấn (ngụ phường Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), bị đơn là ông Bùi Văn Hùng, cựu Chủ tịch HĐQT, người đại diện pháp luật của Công ty CP điện Tam Long, có trụ sở tại Đắk Lắk. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Công ty CP Điện Tam Long.

 Công trình thủy điện Hòa Phú, nơi ông Nguyễn Trương Tấn được thuê làm khảo sát dự án. Ảnh: Thủy điện Hòa Phú

Công trình thủy điện Hòa Phú, nơi ông Nguyễn Trương Tấn được thuê làm khảo sát dự án. Ảnh: Thủy điện Hòa Phú

Chuyển tiền công 1 tỉ đồng thành góp vốn

Như Pháp Luật TP.HCM nhiều lần phản ánh, ông Tấn được Công ty CP Điện Tam Long thuê khảo sát, lập hồ sơ triển khai dự án thủy điện Hòa Phú, với chi phí tiền công 1 tỉ đồng. Do không có tiền trả, ngày 28-2-2010, bốn thành viên họp hội đồng quản trị công ty, thống nhất chuyển 1 tỉ đồng tiền công này thành tiền góp vốn vào công ty; tương đương với 100.000 cổ phần tại Công ty CP Điện Tam Long.

Theo quyết định của Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng, sau khi thủy điện Hòa Phú đi vào hoạt động, ông Hùng (thời điểm này là Chủ tịch HĐQT công ty) đã nhận trách nhiệm để giải quyết công nợ với ông Tấn.

Cụ thể, ngày 7-5-2014, trong nội dung trao đổi qua Email, thể hiện ông Hùng đề nghị ông Tấn xác nhận chi phí công sức ông Tấn đã bỏ ra khi thực hiện thủ tục pháp lý cho dự án và phương thức thanh toán.

Trong nội dung trả lời Email, ông Tấn xác nhận chi phí 1 tỉ đồng trên và phương thức thanh toán đã được HĐQT cũ chấp nhận là quy về % cổ phần. Vì nếu cần thanh toán tiền mặt, ông Tấn đã yêu cầu thanh toán từ lâu, không để tới 5 năm. Ông Hùng không có ý kiến phản đối gì về nội dung trao đổi của ông Tấn.

Sau đó, ông Hùng đã họp với hai cổ đông khác của công ty, thống nhất phương thức thanh toán là quy số tiền 1 tỉ đồng về số % cổ phần (tương ứng 100.000 cổ phần) như ông Tấn đã trao đổi trong Email mà không có ý kiến phản đối gì và giao cho ông Hùng chịu trách nhiệm.

Về sau, trong các năm 2015, 2016 ông Hùng đều thanh toán đầy đủ cổ tức cho ông Tấn; được ghi trong các hóa đơn chuyển tiền ghi rõ nội dung là thanh toán cổ tức.

Bản án sơ thẩm có căn cứ, đúng pháp luật

Theo quyết định của Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng, lẽ ra, sau khi nhận số tiền 1 tỉ đồng của ba cổ đông thanh toán để mua cổ phần cho ông Tấn, ông Hùng phải làm thủ tục chuyển nhượng 100.000 cổ phần này cho ông Tấn theo đúng quy định của pháp luật. Việc làm này nhằm đảm bảo quyền lợi của ông Tấn, nhưng ông Hùng không thực hiện là lỗi của ông Hùng.

Do đó, tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Hùng phải thanh toán cho ông Tấn giá trị của 100.000 cổ phần Công ty CP điện Tam Long trị giá 6,6 tỉ đồng và thiệt hại là cổ tức từ năm 2019 đến tháng 7-2024 trị giá 1,5 tỉ là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, TAND tỉnh Đắk Lắk cấp phúc thẩm cho rằng văn bản ngày 7-5-2014 của ba cổ đông công ty về việc giao 1 tỉ đồng cho ông Hùng để giải quyết với ông Tấn, chỉ có giá trị xác định công sức đóng góp của ông Tấn được các cổ đông này tự nguyện ghi nhận.

Từ đó, tòa án cấp phúc thẩm chỉ buộc ông Hùng trả cho ông Tấn số tiền 1 tỉ đồng đồng là không đúng với bản chất của sự việc, cũng như thỏa thuận giữa các bên về việc thanh toán tiền công sức cho ông Tấn.

Trên cơ sở đó, Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng tuyên hủy bản án số 75/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 263/2024 của TAND TP Buôn Ma Thuột (nay là TAND khu vực I - tỉnh Đắk Lắk).

Yêu cầu thi hành bản án

Trên cơ sở quyết định của Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng, ông Vũ Tuấn Anh, Trưởng thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk vừa ký quyết định thi hành án số 892, yêu cầu ông Bùi Văn Hùng trả cho ông Nguyễn Trương Tấn với tổng số tiền 8,1 tỉ đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ Luật dân sự năm 2015.

VŨ LONG

Nguồn PLO: https://plo.vn/vu-co-dong-kien-cuu-chu-tich-cong-ty-thuy-dien-huy-ban-an-phuc-tham-cua-toa-tinh-dak-lak-post866086.html
Zalo