Vốn đầu tư vào doanh nghiệp AI Việt Nam tăng 8 lần

Chỉ trong một năm, vốn đầu tư vào các doanh nghiệp AI tại Việt Nam đã tăng gấp 8 lần, từ 10 triệu USD (năm 2023) lên 80 triệu USD (năm 2024).

Ông Nguyễn Khắc Lịch, Cục trưởng Cục Công nghiệp công nghệ thông tin phát biểu tại Diễn đàn trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2025. Ảnh: BTC.

Ông Nguyễn Khắc Lịch, Cục trưởng Cục Công nghiệp công nghệ thông tin phát biểu tại Diễn đàn trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2025. Ảnh: BTC.

Thông tin này được đưa ra tại Diễn đàn trí tuệ nhân tạo Việt Nam (AI360) 2025, do Hiệp hội phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA), tổ chức ngày 9/10.

Phát biểu tại sự kiện, ông Nguyễn Khắc Lịch, Cục trưởng Cục Công nghiệp công nghệ thông tin (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhận định, những năm gần đây, Việt Nam đang khẳng định vị thế ngày càng cao trên bản đồ trí tuệ nhân tạo (AI) thế giới.

Dẫn chứng từ Báo cáo chỉ số sẵn sàng AI toàn cầu 2024 của Oxford Insights, ông Lịch cho biết Việt Nam xếp thứ 59/193 quốc gia, nằm trong Top 5 ASEAN và ba năm liên tiếp vượt ngưỡng trung bình toàn cầu. Cùng với đó, World AI Index 2025 ghi nhận Việt Nam đứng thứ sáu trong số 40 quốc gia được đánh giá, xếp thứ ba toàn cầu về mức độ tin tưởng vào AI và thứ năm về khả năng chấp nhận công nghệ này.

Bức tranh đầu tư AI tại Việt Nam cũng đang chuyển biến rõ rệt. Chỉ trong một năm, vốn đầu tư vào các doanh nghiệp AI trong nước đã tăng gấp 8 lần, từ 10 triệu USD (năm 2023) lên 80 triệu USD (năm 2024). Theo ông Lịch, lợi thế dân số trẻ, nguồn nhân lực công nghệ dồi dào và chiến lược dẫn dắt của Nhà nước đang giúp hệ sinh thái AI Việt Nam sẵn sàng cho một bước nhảy vọt mới.

Cũng tại sự kiện, ông Lê Quang Minh, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã trình bày Báo cáo thường niên trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2025, tổng hợp kết quả khảo sát gần 500 doanh nghiệp, cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu và đơn vị ứng dụng AI trong nước.

Theo báo cáo, AI đang mở ra cơ hội lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số. Các ngành dẫn dắt xu hướng cung cấp AI hiện nay gồm công nghệ thông tin (31%), tài chính – ngân hàng (22%), giáo dục (17%), thương mại điện tử và y tế (15%).

Về phía nhu cầu ứng dụng AI, 5 lĩnh vực có tốc độ tăng cao nhất là giáo dục (23%), tài chính (26%), sản xuất công nghiệp (21%), giao thông (15%) và y tế (16%).

Vẫn còn khoảng cách lớn giữa phát triển và ứng dụng AI

Tuy nhiên, bức tranh AI tại Việt Nam vẫn tồn tại nhiều thách thức. Các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm và dịch vụ AI phản ánh thiếu hạ tầng tính toán, dữ liệu chất lượng cao và nguồn vốn đầu tư là rào cản lớn nhất khiến thị trường việc làm ngành AI chưa phát triển tương xứng tiềm năng.

Các cơ sở đào tạo cũng cho biết đang thiếu bộ dữ liệu chuẩn để thực nghiệm, thiếu cơ hội hợp tác trong các dự án thực tế; trong khi người dùng và tổ chức ứng dụng AI lại lo ngại nhiều hơn về rủi ro bảo mật, thay vì vấn đề kỹ thuật.

Về khía cạnh dữ liệu, chi phí thu thập dữ liệu quá cao được xem là vấn đề nan giải đối với cả doanh nghiệp cung cấp và cơ sở đào tạo. Các trường đại học, viện nghiên cứu gặp khó trong việc xây dựng mô hình hiệu quả và có tính ứng dụng thực tiễn, trong khi doanh nghiệp sử dụng AI lo ngại tính minh bạch và an toàn khi truy cập, thu thập dữ liệu.

Báo cáo cũng chỉ ra một điểm nghẽn cốt lõi trong chuỗi giá trị AI. Đó là sự chênh lệch lớn giữa đầu tư phát triển và đầu tư ứng dụng. Trong khi các doanh nghiệp cung cấp giải pháp công nghệ đang đẩy mạnh quy mô dự án, với phần lớn đầu tư từ 1-3 tỷ đồng, thì chi phí dành cho AI của các đơn vị ứng dụng trong 5 lĩnh vực trọng yếu như giáo dục, y tế, tài chính, ciao thông, công nghiệp lại chưa được chú trọng.

Cần chuyển đổi tư duy từ thử nghiệm sang tạo giá trị kinh doanh

Để giải quyết những tồn tại, thách thức trên nhằm AI trở thành động lực tăng trưởng mới của Việt Nam, báo cáo đề xuất Việt Nam cần có chính sách đồng bộ để thúc đẩy việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI tại Việt Nam bao gồm xây dựng các chương trình nghiên cứu chung, thành lập các quỹ hỗ trợ nghiên cứu, tổ chức hội thảo trao đổi chuyên môn.

Đồng thời, cần có chính sách phát triển, chia sẻ, khai thác kho dữ liệu quốc gia, các ngành, địa phương để các tổ chức, doanh nghiệp có thể phát triển các sản phẩm AI đặc thù riêng của Việt Nam.

Việt Nam cũng cần chú trọng đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực AI gồm cả nhân lực phát triển và nhân lực ứng dụng AI trong công việc.

Góp ý thêm tại sự kiện, ông Nguyễn Văn Khoa, Chủ tịch VINASA kiến nghị một số nghiệm vụ cấp thiết trong phát triển và ứng dụng AI. Trước hết, giải quyết bài toán ứng dụng và quản trị AI, tập trung vào việc chuyển đổi tư duy từ thử nghiệm sang tạo giá trị kinh doanh.

“Nếu năm 2023 là năm của các dự án thử nghiệm, thì năm 2025 đã là năm của giá trị kinh doanh thực tế. Làn sóng AI tạo sinh và đặc biệt là tác tử AI (AI Agents) – những hệ thống có khả năng tự chủ vận hành, đang thay đổi hoàn toàn cách thức kinh doanh và quản lý,” ông Khoa nói.

Xây dựng hệ sinh thái kết nối, đưa AI từ phòng thí nghiệm đến thực tiễn, từ tầm nhìn đến giá trị thật thông qua các hoạt động kết nối các thành phần trong hệ sinh thái giữa Chính phủ, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và tổ chức, doanh nghiệp ứng dụng.

Cuối cùng là chuẩn hóa năng lực thông qua khung trưởng thành năng lực AI. Thời gian tới, VINASA sẽ công bố Khung trưởng thành năng lực AI (STAIR – Strategic Transformation & AI Readiness). Đây sẽ là công cụ chiến lược đầu tiên giúp doanh nghiệp tự đánh giá và định hướng năng lực AI của mình.

Hà Anh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/von-dau-tu-vao-doanh-nghiep-ai-viet-nam-tang-8-lan-47205.html