Vợ chồng Mailisa có thể đối diện tội danh nào?
Quá trình điều tra cho thấy hoạt động của thương hiệu Mailisa tồn tại nhiều điểm mờ. Câu hỏi được dư luận quan tâm nhất lúc này là Mailisa có thể phải đối diện với những tội danh nào?

Vợ chồng Mailisa bị cơ quan điều tra khởi tố, bắt giam để điều tra về tội "Buôn lậu". Ảnh: CACC
Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu (C03 Bộ Công an) cho biết vừa khởi tố, bắt tạm giam bà Phan Thị Mai, Giám đốc Công ty TNHH Thẩm mỹ viện Mailisa về tội “Buôn lậu”. Ngoài bà Mai, Bộ Công an cũng khởi tố 7 đối tượng khác cùng về tội “Buôn lậu”, trong đó có ông Hoàng Kim Khánh, chồng của bà Mai. Những bị can còn lại gồm: Trần Đan Phượng, kế toán trưởng; Nguyễn Thị Ngọc Trúc, kế toán Công ty MK Skincare; Vương Phượng Nghi, Giám đốc; Võ Hoài Sơn; Lu XueYi, nhân viên Công ty TNHH xuất nhập khẩu Khải Hoàn và Đỗ Bích Thủy.
C03 cáo buộc, từ năm 2020 đến năm 2024, với mục đích nhập mỹ phẩm về Việt Nam bán thông qua chuỗi Thẩm mỹ viện Mailisa, bà Mai cùng chồng thỏa thuận mua mỹ phẩm sản xuất tại Quảng Châu, Trung Quốc với giá rẻ. Mặt hàng này bị cơ quan điều tra xác định không đảm bảo chất lượng và thành phần theo công bố, không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận lưu hành tự do (CFS) tại Trung Quốc.
Bà Mai cùng một số người Trung Quốc, ký kết hợp đồng ngụy tạo, thay đổi nguồn gốc mỹ phẩm (từ Quảng Châu thành Hong Kong) để được cấp CFS tại Hong Kong. Với quảng cáo sản xuất tại Hong Kong, các loại mỹ phẩm đã thu hút thị hiếu, sự tin tưởng của khách hàng trong nước, bán với giá cao gấp nhiều lần, thu lời bất chính hàng nghìn tỷ đồng (chỉ tính riêng 3/100 sản phẩm chủ đạo hệ thống Mailisa cung cấp trên thị trường).
Hiện cơ quan điều tra vẫn đang mở rộng vụ án, xác định rõ vai trò của từng cá nhân và truy vết toàn bộ nguồn tiền thu lợi bất chính để phục vụ công tác phong tỏa và thu hồi.
Luận bàn về vụ án trên, luật sư Nguyễn Hồng Thái, Giám đốc Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng nghiệp, Đoàn luật sư TP Hà Nội cho biết, hành vi buôn lậu của các bị can thuộc khung đặc biệt nghiêm trọng theo khoản 4 Điều 188, Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là khung cao nhất của tội buôn lậu, với hình phạt từ 12 - 20 năm tù hoặc tù chung thân. Đồng thời, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo luật sư Nguyễn Hồng Thái, hành vi thông thường của buôn lậu là không khai báo hải quan hoặc khai báo gian dối để che giấu nguồn gốc hàng hóa, che giấu giá trị hàng hóa, nhằm mục đích trốn thuế hoặc đưa những hàng hóa không đủ điều kiện kinh doanh vào Việt Nam tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, lừa dối khách hàng và làm thất thu thuế của Nhà nước.
Hành vi này không chỉ vi phạm đạo đức kinh doanh, vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế mà còn tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh đối với các doanh nghiệp cùng lĩnh vực và xâm phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng, ảnh hưởng đến thị trường và quyền lợi của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân.
Điều đáng chú ý, vụ việc có dấu hiệu tổ chức xuyên biên giới trong thời gian dài, thủ đoạn tinh vi. Đây là những tình tiết tăng nặng theo Điều 52, Bộ luật Hình sự. Ngoài tội “Buôn lậu”, cơ quan điều tra có thể mở rộng sang nhiều tội danh khác nếu xác minh được hành vi thay đổi nguồn gốc sản phẩm hoặc quảng cáo gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản.
“Nếu kết quả điều tra cho thấy toàn bộ hoặc một phần sản phẩm bị thay đổi nguồn gốc, xuất xứ, hoặc không đúng chất lượng công bố, các cá nhân liên quan có thể bị xem xét thêm tội “Lừa dối khách hàng” theo quy định tại Điều 198, Bộ luật Hình sự năm 2015 với khung hình phạt tù từ 1 năm đến 5 năm”, luật sư Nguyễn Hồng Thái phân tích thêm.
Trong trường hợp, nếu cơ quan điều tra có kết luận hành vi thỏa thuận mua mỹ phẩm sản xuất không đảm bảo chất lượng và thành phần theo công bố thì hành vi bán mỹ phẩm nhập về được xác định là hàng giả về chất lượng, công dụng, hoặc giả về nguồn gốc, nhãn mác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” được quy định tại Điều 192, Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trường hợp cơ quan điều tra xác định có bằng chứng việc quảng cáo sai sự thật, khiến khách hàng tin tưởng và giao tiền mua sản phẩm kém chất lượng với giá cao, thì hành vi này cũng có thể là gian dối để chiếm đoạt tài sản và có thể đối diện với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174, Bộ luật Hình sự năm 2015.
Ngoài ra, cơ quan điều tra cũng có thể thực hiện các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự là kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản để tránh trường hợp tẩu tán tài sản và để đảm bảo thi hành án.





























