Việt Nam và mục tiêu làm chủ công nghệ chiến lược
Từ khát vọng đến hành động, từ cơ chế chính sách đến sản phẩm cụ thể, Việt Nam đang chứng minh quyết tâm vươn tầm khu vực và quốc tế trong nhiều lĩnh vực công nghệ cao...
Công nghệ chiến lược để phát triển độc lập
Trong khuôn khổ Diễn đàn "Tương lai Khoa học, Công nghệ. Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số Quốc gia", với chủ đề “Công nghệ chiến lược và định hướng phát triển” đã trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của đông đảo đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học và cộng đồng doanh nghiệp. Nhiều ý kiến tâm huyết đã tập trung làm rõ vai trò, mục tiêu và lộ trình để Việt Nam làm chủ công nghệ chiến lược, yếu tố then chốt bảo đảm năng lực cạnh tranh, phát triển độc lập và bền vững của đất nước trong kỷ nguyên số.
Ông Nguyễn Phú Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) nhấn mạnh: những công nghệ lõi không chỉ giúp tạo đột phá về kinh tế mà còn là nền tảng để bảo đảm an ninh quốc gia, nâng cao uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Ông cảnh báo rằng, nếu không làm chủ được công nghệ chiến lược, đất nước sẽ gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh, dễ bị lệ thuộc và mất đi cơ hội phát triển độc lập.
Theo ông Hùng, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển KH&CN và đổi mới sáng tạo đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó lần đầu tiên khái niệm “công nghệ chiến lược” được chính thức thể chế hóa. Đây là dấu mốc quan trọng, khẳng định vai trò trung tâm của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1131/QĐ-TTg ngày 30/6/2025, phê duyệt Danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược với 35 sản phẩm ưu tiên. Không chỉ là danh mục kỹ thuật, đây chính là “bài toán lớn” để cộng đồng khoa học, doanh nghiệp và xã hội cùng tham gia giải quyết.
Trong số này, 6 công nghệ chiến lược ưu tiên triển khai sớm được Bộ KH&CN lựa chọn, gồm: thiết bị mạng di động 5G chuẩn ORAN, mô hình ngôn ngữ lớn và trợ lý ảo tiếng Việt, robot di động tự hành, nền tảng blockchain truy xuất nguồn gốc, thiết bị bay không người lái (UAV) và AI camera xử lý tại biên.
Theo lộ trình, đến cuối năm 2025 Việt Nam sẽ làm chủ 3 sản phẩm công nghệ chiến lược; đến năm 2027 ít nhất 20 sản phẩm và tới năm 2035 khoảng 25 sản phẩm, hướng tới phát triển các ngành công nghệ chiến lược đóng góp 15-20% GDP.
Ông Hùng nhấn mạnh: “Phát triển công nghệ chiến lược phải bắt đầu từ sản phẩm, mà sản phẩm gắn chặt với doanh nghiệp. Nhà nước sẽ kiến tạo thể chế, cơ sở hạ tầng nghiên cứu và thị trường thử nghiệm; còn doanh nghiệp biết thị trường cần gì để biến công nghệ thành sản phẩm, tạo giá trị thực”.
Bộ KH&CN xác định, doanh nghiệp sẽ là chủ lực trong phát triển công nghệ chiến lược. Viện nghiên cứu, trường đại học đóng vai trò cung cấp nền tảng tri thức, nghiên cứu cơ bản; còn Nhà nước chịu trách nhiệm kiến tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ hạ tầng và cơ chế. Đặc biệt, việc thu hút và trọng dụng nhân tài toàn cầu thông qua các “bài toán lớn quốc gia” được xem là đột phá quan trọng.
Điểm mới đáng chú ý trong Luật KH&CN và Đổi mới sáng tạo là cơ chế cho phép nhà khoa học được hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu, khuyến khích họ kiên trì theo đuổi đến sản phẩm cuối cùng. Đây là bước tiến lớn, góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho các nhà nghiên cứu.
Liên kết ba nhà - chìa khóa cho đổi mới sáng tạo
Từ thực tiễn, ông Nguyễn Đạt, Phó Tổng Giám đốc Viettel chia sẻ: trong kỷ nguyên kinh tế số, quốc gia nào nắm bắt và làm chủ công nghệ sẽ vươn lên mạnh mẽ, khẳng định vị thế quốc tế. Ông nhấn mạnh hành trình hơn 10 năm của Viettel vượt qua rào cản nghiên cứu, sáng chế, bản quyền và nhân lực với triết lý “Đặt mục tiêu cao- Cách làm đột phá -Tự thiết kế, tự tích hợp, tự làm chủ công nghệ”.

Ông Nguyễn Đạt, Phó Tổng Giám đốc Viettel trình bày tham luận tại Diễn đàn (Ảnh: Bộ KH&CN)
Viettel đã phát triển từ nghiên cứu quốc phòng sang công nghiệp dân sự, làm chủ hạ tầng viễn thông 4G/5G, xây dựng các nền tảng số cho chuyển đổi số quốc gia, nghiên cứu thiết bị hàng không vũ trụ, và đến nay đã bước đầu xuất khẩu sản phẩm sang Ấn Độ, UAE, Philippines. Để tiếp tục bứt phá, tập đoàn đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Chiến lược với hơn 3.000 nhân sự, đồng thời triển khai chương trình thu hút chuyên gia quốc tế.
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Đạt đề xuất Nhà nước: Mở rộng phạm vi chi của quỹ đầu tư công nghệ chiến lược, bao gồm cả hỗ trợ đầu ra sản phẩm. Xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho ngành bán dẫn, hàng không. Ban hành bộ tiêu chí nội địa hóa mới coi trọng năng lực nghiên cứu - thiết kế thay vì chỉ tính tỷ trọng linh kiện. Thành lập viện nghiên cứu công nghệ chiến lược tầm cỡ khu vực, gắn kết viện - trường - doanh nghiệp.
Ông khẳng định: “Nếu có chính sách hỗ trợ phù hợp, Việt Nam hoàn toàn có thể hình thành những ngành công nghiệp công nghệ chiến lược, vươn lên cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn toàn cầu”.
Ở góc độ đào tạo và nghiên cứu, GS.TS Lê Anh Tuấn, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Bách khoa Hà Nội nhấn mạnh: không một chủ thể nào có thể tự mình gánh vác toàn bộ chuỗi đổi mới sáng tạo. Do đó, cần một mô hình hợp tác chặt chẽ, đa chiều và linh hoạt giữa Nhà nước - doanh nghiệp - viện, trường.
Ông dẫn chứng mô hình Hàn Quốc: Chính phủ giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư cho các chương trình an ninh quốc gia, xây dựng khu công nghệ, hỗ trợ các tập đoàn lớn như Samsung, LG hợp tác chặt chẽ với đại học. Các trường như KAIST, Pohang hay SKKU được doanh nghiệp đầu tư hàng chục đến hàng trăm triệu USD mỗi năm để phát triển trung tâm nghiên cứu, cấp học bổng, hợp tác nghiên cứu. Sự kết hợp này đưa Hàn Quốc trở thành cường quốc công nghệ với tỷ lệ chi R&D/GDP luôn ở nhóm dẫn đầu thế giới.
Ông cũng nêu mô hình Canada, nơi Chính phủ tập trung điều phối chương trình thực tập, đào tạo nhân lực qua hợp tác đại học - doanh nghiệp, giúp sinh viên tăng kỹ năng thực tiễn và gắn kết nghiên cứu với nhu cầu thị trường.
Theo GS.TS Lê Anh Tuấn, Việt Nam phù hợp hơn với mô hình Hàn Quốc: Nhà nước kiến tạo chính sách và đặt hàng công nghệ; viện, trường tạo ra tri thức mới, đào tạo nhân lực chất lượng cao; doanh nghiệp dẫn dắt thị trường và thương mại hóa sản phẩm. “Nghiên cứu khoa học chỉ thực sự có giá trị khi được thương mại hóa và ứng dụng vào đời sống”, ông nhấn mạnh.

GS.TS. Lê Anh Tuấn phát biểu tại Phiên thảo luận (Ảnh: Bộ KH&CN)
Với sự định hướng quyết liệt của Đảng, Nhà nước, tinh thần đột phá từ doanh nghiệp, cùng trí tuệ của đội ngũ nhà khoa học, Việt Nam đang từng bước kiến tạo nền tảng vững chắc để hình thành những ngành công nghiệp công nghệ chiến lược.
Từ khát vọng đến hành động, từ cơ chế chính sách đến sản phẩm cụ thể, Việt Nam đang chứng minh quyết tâm vươn tầm khu vực và quốc tế trong nhiều lĩnh vực công nghệ cao. Làm chủ công nghệ chiến lược không chỉ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế, mà còn củng cố an ninh quốc gia, bảo đảm độc lập tự chủ và vị thế quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa số.
Con đường phía trước còn nhiều thách thức, song với niềm tin và sự đồng lòng, Việt Nam đang vững bước trên hành trình “kiến tạo tương lai bằng công nghệ”, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thịnh vượng và bền vững vào năm 2045.
Năm sáng kiến trọng điểm - nền tảng đột phá cho kỷ nguyên số
Tại Diễn đàn “Tương lai Khoa học, Công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số Quốc gia”, Bộ KH&CN công bố 5 sáng kiến trọng điểm: Sàn giao dịch Khoa học và Công nghệ tại https://techmartvietnam.vn, kết hợp trực tiếp và trực tuyến, là điểm đến để kết nối cung - cầu công nghệ, thúc đẩy thương mại hóa nghiên cứu, phát triển thị trường minh bạch và hiệu quả.
Cổng sáng kiến KH&CN quốc gia tại www.sangkien.gov.vn, nền tảng tiếp nhận, chia sẻ ý tưởng đổi mới sáng tạo từ toàn dân, doanh nghiệp, viện, trường và chuyên gia, huy động trí tuệ tập thể giải quyết những vấn đề lớn của đất nước.
Danh mục công nghệ chiến lược quốc gia với 11 nhóm công nghệ và 35 sản phẩm ưu tiên theo Quyết định 1131/QĐ-TTg, cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 57.
Techfest Quốc gia 2025 đổi mới mô hình tổ chức mở, kết hợp sân khấu ngoài trời, không gian trải nghiệm dọc phố và hội trường chuyên sâu, giúp quảng bá trực quan sản phẩm khởi nghiệp, kết nối với công chúng, nhà đầu tư.
Báo cáo Tương lai KH&CN, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số công bố thường niên từ năm 2026, cung cấp dữ liệu, phân tích phục vụ hoạch định chính sách, lựa chọn ưu tiên đầu tư và tạo đồng thuận xã hội.
Năm sáng kiến này được xem như cam kết mạnh mẽ rằng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ là động lực then chốt đưa Việt Nam tiến nhanh, bền vững trong kỷ nguyên hội nhập.