Việt Nam đẩy mạnh nông nghiệp xanh: Hành động vì mục tiêu phát thải thấp

Sáng ngày 22/10/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị công bố Đề án Sản xuất giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2050 tại Hà Nội.

Đây là bước triển khai quan trọng nhằm cụ thể hóa các mục tiêu của đề án, được phê duyệt tại Quyết định 4024/QĐ-BNNMT ngày 29/9 “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050”, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nền nông nghiệp bền vững, phát thải thấp và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Các đại biểu tại Hội nghị Công bố Đề án "Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035". (Ảnh: báo Nông nghiệp Môi trường)

Các đại biểu tại Hội nghị Công bố Đề án "Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035". (Ảnh: báo Nông nghiệp Môi trường)

Đề án này không chỉ là cam kết của ngành nông nghiệp Việt Nam trong việc thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), mà còn thể hiện quyết tâm đạt mục tiêu giảm 30% phát thải khí nhà kính vào năm 2030, hướng tới một nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn và có trách nhiệm với môi trường toàn cầu.

Hội nghị công bố Kế hoạch hành động của Đề án, do Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung chủ trì, đã thu hút sự tham gia của các đơn vị trực thuộc Bộ như Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Cục Biến đổi khí hậu, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Khoa học và Công nghệ, cùng đại diện UBND, Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành phố. Với sự góp mặt của các tổ chức quốc tế như FAO, World Bank, GIZ, UNDP, cùng nhiều doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và viện nghiên cứu, thể hiện sự đồng hành đa bên trong nỗ lực chuyển đổi nông nghiệp xanh.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)

Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh chủ trương triển khai Đề án: “Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ sản phẩm, rõ quy mô địa bàn thực hiện”. Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cơ quan chủ trì, được giao nhiệm vụ cập nhật báo cáo định kỳ, đồng thời hoàn thiện dự thảo Kế hoạch hành động để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả. Các mô hình chuyển đổi cây trồng sẽ được lựa chọn dựa trên diện tích, tiềm năng giảm phát thải và lợi thế sẵn có, tập trung vào 5 nhóm cây trồng được đề xuất trong Đề án.

Về cơ chế chính sách, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo Cục Biến đổi khí hậu thí điểm trao đổi tín chỉ carbon nội địa trước năm 2028, tạo nền tảng tham gia thị trường carbon quốc tế. “Cần khơi thông thị trường, mang lại lợi ích thực tế cho người dân,” Thứ trưởng khẳng định.

Hệ thống đo đạc, giám sát (MRV) đang được xây dựng, dù còn nhiều thách thức, với sự tham gia của các viện nghiên cứu trực thuộc Bộ. Sau khi hoàn thiện quy trình MRV, Việt Nam sẽ triển khai mô hình trao đổi tín chỉ carbon và kết nối với thị trường quốc tế.

Tái khẳng định tham vọng của Đề án, Thứ trưởng Hoàng Trung chia sẻ: Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050 không chỉ là một chương trình của Bộ, mà là một phong trào hành động quốc gia, là lời cam kết của nông nghiệp Việt Nam trước thế giới về trách nhiệm trước biến đổi khí hậu, về con đường phát triển xanh, bền vững.

Cũng tại hội nghị, TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhấn mạnh hai nhóm giải pháp quan trọng để đảm bảo chuyển đổi nông nghiệp xanh hiệu quả.

TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)

TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)

Thứ nhất, phải điều chỉnh cơ sở hạ tầng nông nghiệp, đặc biệt là hệ thống thủy lợi cho cây lúa, để hỗ trợ các kỹ thuật canh tác phát thải thấp. “Muốn giảm phát thải, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ, vì chỉ khi rút nước kịp thời mới có thể thực hiện được các kỹ thuật canh tác phát thải thấp” ông Phát lưu ý.

Thứ hai, cần huy động nguồn lực toàn quốc, bởi nếu chỉ trông chờ vào ngân sách thì khó có thể đi đường dài. Theo ông Phát, trong 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm của dự thảo kế hoạch hành động, chính sách vẫn là yếu tố then chốt. Cần thống nhất quan điểm coi nông dân và doanh nghiệp là hai chủ thể trung tâm, vừa là người thực hiện, vừa là người hưởng lợi. Khi thấy được lợi ích cụ thể và được hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, họ sẽ chủ động tham gia, đặc biệt trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật.

Ngoài ra, các tổ chức xã hội, viện nghiên cứu, trường đại học và cả người tiêu dùng cũng cần được lồng ghép trong hệ sinh thái phát triển nông nghiệp xanh, bởi chuyển đổi không chỉ diễn ra trên đồng ruộng mà còn trong toàn chuỗi giá trị.

Về phía doanh nghiệp, ông Đặng Văn Bảo, Chủ tịch Hiệp hội CropLife Việt Nam đề xuất ba nhóm công nghệ then chốt: Thứ nhất, các giải pháp và công cụ bảo vệ thực vật tiên tiến, bao gồm thuốc bảo vệ thực vật sinh học; thiết bị drone phun chính xác và phương thức quản lý dịch hại tổng hợp (IPM).

Ông Đặng Văn Bảo, Chủ tịch Hiệp hội CropLife Việt Nam. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)

Ông Đặng Văn Bảo, Chủ tịch Hiệp hội CropLife Việt Nam. (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)

Cùng với đó, cây trồng công nghệ sinh học, đặc biệt là các giống cây biến đổi gen đã được canh tác tại Việt Nam đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc giảm lượng nguyên liệu canh tác đầu vào như thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, công lao động; hạn chế năng lượng tiêu hao, qua đó khuyến khích canh tác không cày xới, giúp tăng hấp thu carbon trong đất.

Cuối cùng, theo ông Bảo, cây trồng chỉnh sửa gen là hướng đi đầy tiềm năng, cho phép tạo ra giống cây trồng thích nghi cao với biến đổi khí hậu, chịu hạn, kháng sâu bệnh, giúp giảm nhu cầu đầu vào và nâng cao hiệu quả hấp thu carbon sinh học.

Đại diện Hiệp hội CropLife Việt Nam cho biết hoàn toàn ủng hộ định hướng, mục tiêu và các nhóm giải pháp mà Đề án đã đặt ra, đặc biệt là các nội dung về phát triển gói kỹ thuật canh tác giảm phát thải, thiết lập hệ thống MRV, và tăng cường hợp tác công - tư trong triển khai mô hình trồng trọt phát thải thấp.

Đề án không chỉ là chương trình của Bộ Nông nghiệp và Môi trường mà là một phong trào quốc gia, khẳng định trách nhiệm của Việt Nam trước biến đổi khí hậu.

Với sự đồng hành của các đối tác quốc tế, doanh nghiệp và địa phương, Đề án hướng tới xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp xanh, trong đó nông dân và doanh nghiệp là trung tâm, được hỗ trợ bởi các chính sách khuyến khích và công nghệ tiên tiến. Việc chuyển đổi cây trồng từ loại phát thải cao sang loại phát thải thấp, cùng với phát triển thị trường carbon, sẽ mở ra cơ hội nâng cao thu nhập cho người dân, đồng thời góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.

Ông Vũ Ngọc Châu, Cán bộ cao cấp quản lý dự án nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên - Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)

Ông Vũ Ngọc Châu, Cán bộ cao cấp quản lý dự án nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên - Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). (Ảnh: Báo Nông nghiệp Môi trường)

Ông Vũ Ngọc Châu, Cán bộ cao cấp quản lý dự án nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên - Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhận định: nhiều nội dung trong đề án trồng trọt giảm phát thải mà Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng có sự tương đồng với các chương trình, dự án mà ADB triển khai tại Việt Nam, như các dự án đầu tư thủy lợi hay Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở ĐBSCL.

Theo ông Châu, ADB đặc biệt quan tâm đến tín chỉ carbon, loại “hàng hóa mới” có thể được tạo ra từ việc giảm phát thải trong sản xuất nông nghiệp. ADB sẵn sàng tham gia mua tín chỉ carbon nếu Việt Nam hình thành được cơ chế giao dịch minh bạch, có tính khả thi và bền vững. Đây là hướng đi mà ADB xem như bước nối tiếp các khoản đầu tư vào hạ tầng và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp khu vực Đông Nam Á.

ADB đang chuẩn bị phê duyệt một dự án hỗ trợ kỹ thuật về sản xuất lúa gạo cho khu vực này, trong đó Việt Nam được coi là điểm trọng tâm nhờ lợi thế canh tác và cam kết phát thải ròng bằng 0. Dư địa hợp tác giữa ADB và Đề án trồng trọt giảm phát thải là rất lớn, theo ông Châu.

Tuy nhiên, đại diện ADB cũng lưu ý rằng để thu hút được các tổ chức tài chính quốc tế, Việt Nam cần sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho thị trường carbon. Khi có khung pháp lý rõ ràng, các đối tác như ADB mới có thể tham gia sâu hơn, không chỉ trong trồng trọt mà cả trong lĩnh vực lâm nghiệp, nơi có tiềm năng lớn về hấp thụ carbon.

Bên cạnh cơ chế thị trường, yếu tố hạ tầng kỹ thuật cũng được ông Châu nhấn mạnh. Việt Nam có trình độ canh tác lúa tiên tiến, song để thực hiện hiệu quả các mô hình giảm phát thải, nhất là tại ĐBSCL, cần có hệ thống thủy lợi đủ năng lực để chủ động rút nước và điều tiết dòng chảy.

Nếu không thể rút nước kịp thời, nông dân sẽ không thể áp dụng biện pháp canh tác khô xen ướt - yếu tố then chốt để giảm khí metan từ ruộng lúa. Từ thực tiễn hợp tác với ngành nông nghiệp, ông Châu đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục cải thiện thời gian phê duyệt cơ chế tài chính, góp phần giúp ADB tham gia tích cực hơn vào đề án.

Bảo Loan

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/viet-nam-day-manh-nong-nghiep-xanh-hanh-dong-vi-muc-tieu-phat-thai-thap-102877.html