Việt Nam đặt mục tiêu công nghiệp văn hóa đóng góp 9% GDP vào 2045

Thủ tướng Phạm Minh Chính phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến 2030, tầm nhìn 2045, đặt mục tiêu đưa lĩnh vực này trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp 7% GDP vào 2030 và 9% GDP vào 2045, thúc đẩy quảng bá giá trị văn hóa Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký Quyết định số 2486 phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là chiến lược định hướng dài hạn nhằm đưa công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế quan trọng, khai thác sức mạnh mềm và nguồn lực sáng tạo của đất nước trong giai đoạn hội nhập sâu rộng.

Việt Nam hướng tới quốc gia mạnh về công nghiệp văn hóa – giải trí

Theo chiến lược, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam gồm: điện ảnh; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; nghệ thuật biểu diễn; phần mềm và trò chơi giải trí; quảng cáo; thủ công mỹ nghệ; du lịch văn hóa; thiết kế sáng tạo; truyền hình và phát thanh; xuất bản. Đây là nhóm ngành tạo ra sản phẩm kết hợp yếu tố văn hóa, sáng tạo, công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân và phù hợp mục tiêu phát triển bền vững.

Chiến lược nhấn mạnh yêu cầu phát triển công nghiệp văn hóa như những ngành kinh tế quan trọng, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời góp phần quảng bá các giá trị lịch sử – văn hóa – con người Việt Nam. Công nghiệp giải trí được định hướng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân và du khách, tăng cường kết nối cộng đồng, tôn vinh giá trị truyền thống và mở rộng xuất khẩu.

Đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đặt mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10%/năm và đóng góp 7% GDP. Lực lượng lao động trong lĩnh vực này dự kiến tăng bình quân 10%/năm, chiếm 6% tổng lực lượng lao động của nền kinh tế. Số lượng cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa cũng đặt mục tiêu tăng bình quân 10%/năm.

Ở lĩnh vực xuất khẩu, chiến lược đặt ra mục tiêu tăng trưởng giá trị xuất khẩu 7%/năm. Bên cạnh đó, phần lớn trung tâm công nghiệp văn hóa, không gian sáng tạo, khu công nghiệp văn hóa, tổ hợp và khu phức hợp sáng tạo sẽ được quy hoạch đồng bộ, đầu tư hiện đại, khai thác giá trị đặc sắc và gắn với xây dựng thương hiệu địa phương, quốc gia.

Tầm nhìn đến năm 2045 xác định các ngành công nghiệp văn hóa phát triển bền vững, có sức cạnh tranh cao và góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Theo đó, doanh thu từ các ngành này sẽ đóng góp 9% GDP, lực lượng lao động chiếm 8% tổng lao động xã hội, và sản phẩm công nghiệp văn hóa số chiếm trên 80% tổng sản phẩm công nghiệp văn hóa.

Chiến lược hướng tới đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển về công nghiệp văn hóa và công nghiệp giải trí trong khu vực châu Á, đồng thời khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghiệp văn hóa thế giới.

Ưu tiên phát triển 6 ngành trọng điểm để tạo sức bật giá trị văn hóa

Các ngành công nghiệp văn hóa sẽ phát triển trên cơ sở tiềm năng, lợi thế và quy hoạch của từng địa phương, phù hợp với mô hình đơn vị hành chính. Chiến lược ưu tiên phát triển theo các vùng kinh tế trọng điểm, lựa chọn một số tỉnh, thành phố có điều kiện thuận lợi làm trung tâm kết nối và lan tỏa.

Phát triển doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp văn hóa là nhiệm vụ quan trọng, nhằm hình thành hệ sinh thái liên kết chuyên nghiệp giữa sáng tạo – sản xuất – kinh doanh – quảng bá – tiêu dùng. Việc xây dựng các trung tâm phân phối, đẩy mạnh xuất khẩu và tập trung vào các thị trường sẵn có, đồng thời mở rộng sang thị trường tiềm năng cũng được xác định là hướng đi trọng tâm.

Giai đoạn đến 2030, sản phẩm công nghiệp văn hóa Việt Nam ưu tiên đáp ứng thị trường trong nước và thúc đẩy xuất khẩu, trước mắt chú trọng các khu vực có đông người Việt Nam sinh sống. Giai đoạn đến 2045, chiến lược đặt mục tiêu tối đa hóa tính chuyên nghiệp, sáng tạo và sức cạnh tranh của sản phẩm văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Chiến lược cũng nhấn mạnh tập trung phát triển 6 ngành công nghiệp văn hóa trọng điểm: điện ảnh; nghệ thuật biểu diễn; phần mềm và trò chơi giải trí; quảng cáo; thủ công mỹ nghệ; du lịch văn hóa. Đây được xem là nhóm ngành có khả năng tạo kết nối, gia tăng giá trị sản phẩm và chuyển hóa các giá trị văn hóa thành sức mạnh mềm quốc gia.

Chiến lược đưa ra nhóm nhiệm vụ chung gồm: đẩy mạnh truyền thông; hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách; phát triển nguồn nhân lực; phát triển hạ tầng và thu hút đầu tư; ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phát triển thị trường; đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Song song, chiến lược xác định các nhiệm vụ trọng tâm đối với 6 ngành công nghiệp văn hóa ưu tiên.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được giao trách nhiệm xây dựng kế hoạch triển khai chiến lược; hướng dẫn các địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện; đề xuất cơ chế, chính sách cần thiết; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công nghiệp văn hóa.

Bộ cũng sẽ chủ trì phối hợp xây dựng cơ sở dữ liệu và bộ chỉ tiêu thống kê về công nghiệp văn hóa; theo dõi, kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện; định kỳ báo cáo Thủ tướng; tổ chức sơ kết 2–3 năm và tổng kết 5 năm để đánh giá hiệu quả, đồng thời đề xuất điều chỉnh chiến lược khi cần thiết.

Ngoài Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chiến lược cũng giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh, thành phố cùng các hội, hiệp hội và tổ chức liên quan nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa và công nghiệp giải trí tại Việt Nam.

Hà Phương/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/van-hoa/viet-nam-dat-muc-tieu-cong-nghiep-van-hoa-dong-gop-9-gdp-vao-2045-post1246792.vov