Việt Nam cần từ 55- 92 tỷ USD để thích ứng biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030
Trong giai đoạn 2021- 2030, Việt Nam cần khoảng 55- 92 tỷ USD để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ thích ứng biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước chỉ có thể đáp ứng một phần, dự kiến mỗi năm Việt Nam phải huy động thêm từ 2,7 đến hơn 6 tỷ USD từ nguồn vốn ngoài ngân sách...

Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương và chịu tác động nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Ảnh minh họa.
Con số này được đưa ra trong báo cáo Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (cập nhật). Báo cáo cập nhật năm 2025 phản ánh những nỗ lực của Việt Nam trong việc tăng cường khả năng chống chịu khí hậu, đồng thời, hướng tới thúc đẩy hợp tác quốc tế và huy động nguồn lực cho các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, góp phần thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam.
NỖ LỰC TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG, CHỐNG CHỊU TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam là một trong 65 quốc gia đã nộp Báo cáo này tới Ban Thư ký Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC). Điều này thể hiện những bước tiến quan trọng của Việt Nam trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế cũng như những nỗ lực tăng cường khả năng thích ứng, chống chịu trước những biến động ngày càng khắc nghiệt của khí hậu.
Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương và chịu tác động nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Các tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra có xu hướng gia tăng, làm cản trở các nỗ lực phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
Ở Việt Nam, biến đổi khí hậu đã tác động tiêu cực đến các ngành, lĩnh vực, các địa phương, là nguy cơ hiện hữu đối với mục tiêu phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo của đất nước. Điều này đòi hỏi cần có các hành động để kịp thời giảm nhẹ thiệt hại và tăng cường công tác quản lý rủi ro khí hậu, phòng chống thiên tai.

Việt Nam là một trong 65 quốc gia đã nộp Báo cáo này tới Ban Thư ký Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC).
Việc xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giúp sử dụng hiệu quả nguồn lực, tăng cường khả năng quản lý, điều phối về tài chính và kỹ thuật, tránh sự chồng chéo, trùng lặp, thúc đẩy quá trình tham gia của cộng đồng, khối doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế trong việc thực hiện các mục tiêu thích ứng của quốc gia. Do đó việc xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu (NAP) là cần thiết.
Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021- 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 20/7/2020. Sau quá trình triển khai thực hiện, với bối cảnh mới, Việt Nam tiếp tục cập nhật Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021- 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 và đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19/11/2024.
Việc triển khai thực hiện Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương và rủi ro trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu thông qua nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu.
Báo cáo cập nhật năm 2025 gồm 5 chương trong đó trình bày xu thế biến đổi khí hậu theo số liệu quan trắc, kịch bản biến đổi khí hậu cho tương lai; sự gia tăng rủi ro khí hậu; tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, khu vực và các nhóm đối tượng xã hội; tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu đối với Việt Nam ở hiện tại và ước tính cho tương lai.
Bên cạnh đó, Báo cáo đánh giá và phân tích kết quả về chính sách, hành động và nguồn lực tài chính cho thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời chỉ ra những thiếu hụt trong thích ứng biến đổi khí hậu đối với quốc gia, ngành và địa phương, bao gồm thể chế, chính sách; tài chính, khoa học và công nghệ; lồng ghép thích ứng vào chiến lược phát triển; phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương; liên kết vùng; sự tham gia của xã hội và hợp tác quốc tế.
Đối với kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu, báo cáo nêu mục tiêu, một số chỉ tiêu cần đạt và các nhiệm vụ, giải pháp ưu tiên để thích ứng biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2021- 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 được xác định cho các ngành, lĩnh vực, địa phương; tổ chức thực hiện Kế hoạch; giám sát và đánh giá; nguồn lực tài chính thực hiện Kế hoạch.
Đáng chú ý, báo cáo cũng phân tích những khó khăn, thách thức và đánh giá tác động của việc thực hiện Kế hoạch quốc gia đến kinh tế, xã hội và môi trường; phân tích những đóng góp tiềm năng của Kế hoạch quốc gia đến việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững; xác định nhu cầu hỗ trợ quốc tế về tài chính và tăng cường năng lực nhằm nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam.
HUY ĐỘNG MỌI NGUỒN LỰC ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU VÀ TRIỂN KHAI CÁC GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG
Việt Nam là quốc gia chịu tổn thất và thiệt hại nặng nề do tác động của biến đổi khí hậu. Do vậy, Việt Nam cần huy động mọi nguồn lực để nâng cao khả năng chống chịu và triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng.
Theo số liệu báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2022 của Việt Nam, nhu cầu tài chính cho thích ứng với biến đổi khí hậu vào năm 2030 ước tính vượt quá 3%- 5% GDP của năm 2020.
Ước tính trong giai đoạn 2021- 2030, Việt Nam cần khoảng 55 - 92 tỷ USD để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ thích ứng biến đổi khí hậu. Nếu trong giai đoạn 2021- 2030 Việt Nam tiếp tục thực hiện phương án chi 1,5% GDP cho thích ứng với biến đổi khí hậu thì bình quân mỗi năm cần huy động vốn ngoài ngân sách khoảng 2,75 - 6,42 tỷ USD, hay khoảng 27,5 - 64,16 tỷ USD cho giai đoạn 2021 - 2030.

Việt Nam cần huy động mọi nguồn lực để nâng cao khả năng chống chịu và triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đây là một thách thức lớn để Việt Nam triển khai các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu. Do đó, cùng với việc huy động nguồn lực, thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nước, nguồn lực hỗ trợ về tài chính, công nghệ từ quốc tế rất quan trọng để thực hiện các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Còn theo Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển năm 2022 của Ngân hàng Thế giới, các tác động của biến đổi khí hậu có thể khiến Việt Nam thiệt hại tổng cộng 12- 14,5% GDP, tương đương tổng thiệt hại là 400 - 523 tỷ USD tính đến năm 2050.
Tổng nhu cầu đầu tư thêm vầ tài chính cho thích ứng từ năm 2022 đến năm 2040 ước tính khoảng 254 tỷ USD, bao gồm khoảng 219 tỷ USD đầu tư cho hạ tầng và 35 tỷ USD đầu tư cho các chương trình xã hội tăng cường năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bằng nguồn lực trong nước, Việt Nam khó có thể đáp ứng nếu không có sự đóng góp hỗ trợ từ các nguồn bên ngoài. Trong đó có khuyến khích đầu tư tư nhân (cả vào công nghệ và cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu hơn); tài trợ từ ngân sách bằng cách nâng cao nguồn thu bổ sung (từ thị trường carbon, vốn vay để giảm gánh nặng cho Chính phủ); huy động thêm nguồn thu từ các nguồn tài chính quốc tế (từ các tổ chức đầu tư, các nhà tài trợ đa phương và song phương, đồng thời khai thác nguồn FDI).
Do đó, cùng với việc huy động nguồn lực, thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nước, nguồn lực hỗ trợ về tài chính, công nghệ từ các nguồn hợp tác quốc tế là rất quan trọng để thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu.