'Việt Nam cần đặc biệt chú trọng phát triển các ngành công nghiệp nền tảng'
Không chỉ cần duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, quan trọng hơn cần tái cấu trúc động lực tăng trưởng theo hướng bền vững và tự chủ, trong đó, phát triển sản xuất trong nước là nền tảng cốt lõi của mọi chiến lược thương mại.
Chia sẻ tại Tọa đàm với chủ đề “Giải pháp tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững” do Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tổ chức ngày 16/12, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho biết, 2025 là năm hết sức đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, khi liên tiếp lập “kỷ lục kép” vì lần lượt vượt qua 2 mốc là 800 tỷ USD và hơn 900 tỷ USD.
“Không chỉ tăng trưởng về quy mô, cán cân thương mại cũng có bước chuyển đáng kể. Từ năm 2015 đến nay, về cơ bản Việt Nam duy trì trạng thái xuất siêu, với kỷ lục là năm 2023 cho thấy xuất nhập khẩu không chỉ mở rộng về lượng còn góp phần tích cực cho ổn định kinh tế vĩ mô”, ông Hải nói.

Tọa đàm “Giải pháp tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững” do Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tổ chức ngày 16/12
3 mất cân đối lớn
Tuy vậy, ông Hải cũng thẳng thắn chỉ ra bức tranh thương mại vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Đơn cử như cơ cấu hàng hóa, các nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất hiện nay vẫn là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; điện thoại và linh kiện. “Cơ cấu xuất - nhập khẩu cho thấy sự tương đồng khá rõ, phản ánh thực tế Việt Nam vẫn nhập khẩu nhiều linh kiện, bán thành phẩm để lắp ráp và xuất khẩu”, ông Hải phân tích.
Ông Hải cũng nêu ra 3 dạng mất cân đối lớn trong xuất - nhập khẩu, đó là mất cân đối về thị trường khi tập trung vào một số đối tác chủ lực; mất cân đối về chủ thể khi khu vực DN FDI chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu; và đặc biệt là mất cân đối về giá trị gia tăng.
Đặc biệt, hoạt động xuất - nhập khẩu còn chịu tác động từ nhiều xu hướng lớn của thương mại toàn cầu; xu hướng phân mảnh và khu vực hóa thương mại, sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ, các biện pháp phòng vệ thương mại, cùng với yêu cầu ngày càng cao về phát triển bền vững và xanh hóa chuỗi cung ứng.
Trước những thực tế đang đặt ra, ông Trần Thanh Hải cho rằng, xuất - nhập khẩu Việt Nam trong thời gian tới không chỉ cần duy trì tốc độ tăng trưởng cao, quan trọng hơn cần tái cấu trúc động lực tăng trưởng theo hướng bền vững và tự chủ hơn. Trong đó, phát triển sản xuất trong nước là nền tảng cốt lõi của mọi chiến lược thương mại.
“Trong giai đoạn tới, Việt Nam cần đặc biệt chú trọng phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, có khả năng cung ứng nguyên liệu, linh kiện và bán thành phẩm cho các ngành xuất khẩu chủ lực. Việc từng bước giảm phụ thuộc vào nhập khẩu đầu vào không chỉ giúp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, còn tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài và nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng. Chỉ khi chủ động được sản xuất mới có thể nói tới việc gia tăng giá trị thực sự trong hàng hóa xuất khẩu”, ông Hải nói.

Các chuyên gia cho rằng, chỉ khi chủ động được sản xuất mới có thể nói tới việc gia tăng giá trị thực sự trong hàng hóa xuất khẩu
Nâng tiêu chí xuất khẩu bền vững
Khẳng định xuất khẩu bền vững không còn là câu chuyện xa xôi, thực sự đã trở thành yêu cầu hiện hữu đối với DN xuất khẩu Việt Nam, bà Nguyễn Thị Thu Trang, chuyên gia pháp luật và hội nhập kinh tế quốc tế, nguyên Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) lưu ý, các tiêu chí bền vững hiện nay không còn dừng ở mức an toàn như trước, đã được nâng lên những chuẩn mực cao hơn, với các yêu cầu ngày càng chi tiết và chặt chẽ, đặc biệt liên quan đến môi trường, phát thải, trách nhiệm xã hội và chuỗi cung ứng.
“Nếu trước đây các tiêu chuẩn chủ yếu xoay quanh an toàn sản phẩm, hiện nay nhiều thị trường đã đặt ra các giới hạn tối đa cho phép đối với các yếu tố môi trường, buộc DN phải tính toán lại toàn bộ quy trình sản xuất và xuất khẩu. Những yêu cầu này tác động trực tiếp đến nhiều ngành hàng, trong đó có cả những lĩnh vực đang đạt tăng trưởng xuất khẩu cao như nông sản”, bà Trang đề cập.
Bà Trang đơn cử, với DN thép xuất khẩu vào thị trường EU, ngoài các chi phí sản xuất thông thường, còn phải nộp thêm các khoản liên quan đến phát thải CO2 theo Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Đây không chỉ là câu chuyện kỹ thuật, mà là vấn đề tài chính có ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của hàng hóa.
Ngoài ra, các chính sách mở rộng thuế, phí và trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất cũng đang được nhiều thị trường áp dụng. “Hiện nay, đã có khoảng 20 nhóm sản phẩm chịu các tiêu chuẩn liên quan đến trách nhiệm của nhà sản xuất, tạo ra áp lực đáng kể đối với DN, đặc biệt ở khía cạnh chi phí và tổ chức thực hiện”, bà Trang nêu.
Để tuân thủ các tiêu chuẩn xuất khẩu bền vững, bà Trang cho rằng, các DN cần có sự chuẩn bị bài bản, trong đó nhiều yêu cầu chỉ có thể thực hiện được khi áp dụng công nghệ mới. Trong đó có việc báo cáo phát thải hay truy xuất nguồn gốc đòi hỏi hệ thống dữ liệu và công nghệ theo dõi xuyên suốt chuỗi sản xuất.
“DN cần có năng lực theo dõi thường xuyên các tiêu chuẩn, duy trì hệ thống thực thi và cập nhật liên tục các yêu cầu mới theo lộ trình, bởi đi quá nhanh có thể vượt quá năng lực của DN, nhưng đi quá chậm sẽ khiến DN không kịp đáp ứng yêu cầu thị trường”, bà Trang khuyến nghị.





























