Việt Minh - Bài học vô giá về sức mạnh đoàn kết dân tộc
Mặt trận Việt Minh ra đời trong thời khắc lịch sử và đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang, trở thành biểu tượng sáng ngời của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Lịch sử của Mặt trận Việt Minh để lại những bài học vô giá về sức mạnh đoàn kết, về nghệ thuật tập hợp và quy tụ mọi lực lượng yêu nước, kết nối sự đa dạng thành thống nhất vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc…

Sáng ngày 19/8/1945, hàng chục vạn người dân Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ảnh: Tư liệu TTXVN.
Việc cứu quốc là việc chung
Năm 1941 tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều chuyển biến. Thấy rõ hướng chuyển biến thuận lợi cho cách mạng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ Tám xem lại các chính sách của Đảng trong tình hình mới. Hội nghị nhận định: “Cách mạng Việt Nam lúc này là cách mạng giải phóng dân tộc”.
Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp – Nhật lấy tên là Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.
Trung ương quyết định Đảng phải hết sức giúp đỡ Việt Minh phát triển sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội. Muốn thế Đảng phải thay đổi cách lãnh đạo Mặt trận. Phải lãnh đạo bằng lối đề nghị với quần chúng, chứ không phải bằng lối ra mệnh lệnh. Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng phải nằm trong quần chúng nhân dân, lắng nghe nguyện vọng của nhân dân. Nằm trong Mặt trận để lãnh đạo Mặt trận.
Để thức tỉnh tinh thần yêu nước của đồng bào, ngày 6/6/1941 đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi thư “Kính cáo đồng bào”. Người nêu rõ:
“Dân ta một cổ đôi tròng. Đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật” và Người kêu gọi: “Con Lạc, cháu Hồng” cùng nhau đoàn kết đặt quyền lợi dân tộc cao hơn hết, quyết đánh đổ đế quốc và Việt gian, cứu giống nòi ra khỏi nước sâu, lửa bỏng, “Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm”.
Người khơi dậy truyền thống oanh liệt của các bậc Anh hùng cứu quốc tiền bối, hô hào lớp người đương thời tô thắm thêm những trang sử rực rỡ của dân tộc, nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết đánh đuổi bọn xâm lược.
Tháng 10/1941 Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Đây là lần đầu tiên, Mặt trận dân tộc thống nhất khi được thành lập trình bày rõ ràng đường lối, chính sách, cách thức tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu quốc của mình.
Thực hiện Thư “Kính cáo đồng bào” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Chương trình, Điều lệ của Mặt trận Việt Minh, các tổ chức cứu quốc như: Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, văn hóa cứu quốc .v.v... hình thành và phát triển ở nhiều nơi, đã thu hút hầu hết các lực lượng yêu nước vào tổ chức và tham gia chống giặc ở các địa phương.
Đến cuối năm 1943, ở nhiều địa phương miền Bắc do đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân tập hợp trong Mặt trận Việt minh, bộ máy chính quyền của địch bị tê liệt, chính sách của Việt Minh được thực hiện từng bước.
Ở nông thôn, trong 3 Hội: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc và Nông dân cứu quốc thì Nông dân cứu quốc là đông đảo nhất và hoạt động hăng hái nhất, thường được mệnh danh là “chủ lực quân” trong các cuộc đấu tranh chống địch.
Ở thành thị, cùng với Hội Thanh niên và Phụ nữ là Hội công nhân cứu quốc. Việc giác ngộ và tổ chức những binh sĩ của địch vào Hội quân nhân cứu quốc được cả ba tổ chức trên phối hợp thực hiện.
Cùng với việc chuẩn bị về mặt chính trị, Việt Minh chăm lo xây dựng các đội Tự vệ cứu quốc, Tự vệ chiến đấu và được huấn luyện quân sự một cách bài bản.
Đoàn kết như thời Việt Minh
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, Ban thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương họp từ ngày 25 đến 28 tháng 2 năm 1942 đã quyết định: Mở rộng Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh cao trào kháng Nhật cứu nước. Phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đi đôi với việc củng cố, phát triển những tổ chức đã có như: Công, Nông, các tổ chức của Thanh niên, Phụ nữ đã đẩy mạnh việc vận động, thu hút tư sản, địa chủ, tiểu thương và các tầng lớp trên tham gia để Mặt trận Việt Minh thực sự là Mặt trận của toàn dân.
Cùng với việc mở rộng mặt trận trong nước, Việt Minh đã liên minh với các Đảng phái chống phát xít của người nước ngoài theo tinh thần bình đẳng, tương trợ.
Năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc ra đời nhằm tập hợp các văn nghệ sĩ yêu nước vào Việt Minh và tiếp đó tháng 6/1944 Đảng cộng sản Đông Dương giúp cho những sinh viên yêu nước thành lập Đảng Dân chủ và tham gia Mặt trận Việt Minh.
Ngày 7/5/1944 Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa nhằm đẩy mạnh phong trào chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa.
Tháng 10/1944 Nguyễn Ái Quốc có thư kêu gọi đồng bào ra sức chuẩn bị để họp Toàn quốc đại biểu đại hội trong năm 1944, đại biểu cho “tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể bầu ra”.
Trên cơ sở lực lượng vũ trang đang hình thành, tháng 12/1944 Nguyễn Ái Quốc ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Ngày 9/3/1945 Nhật lật đổ Pháp độc chiếm Đông Dương, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị nêu tình hình khủng hoảng chính trị này thúc đẩy cho những điều kiện khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Kẻ thù của dân tộc ta lúc này là Nhật. Khẩu hiệu hành động là “đánh đuổi phát xít Nhật”, phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, sẵn sàng chuyển qua hình thức Tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
Thực hiện Chỉ thị trên, một cao trào cách mạng mới xuất hiện. Những cuộc Khởi nghĩa từng phần diễn ra ở các địa phương, xóa bỏ chính quyền tay sai, lập ra các Ủy ban giải phóng dân tộc. Các đội tự vệ chiến đấu và tuyên truyền xung phong hoạt động ngay tại những nơi có quân Nhật chiếm đóng, kêu gọi đồng bào tham gia Việt Minh đánh Nhật và tiễu trừ Việt gian. Chiến tranh du kích ngày càng được mở rộng với những cuộc phục kích, tập kích nhằm vào quân Nhật. Kết hợp với những cuộc khởi nghĩa lập các chiến khu ở nông thôn, miền núi, tạo điều kiện thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng thành Việt Nam Giải phóng quân và các khu giải phóng.
Phát xít Đức đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh, Liên Xô tuyên chiến với Nhật báo hiệu giờ tận số của chủ nghĩa Phát xít, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào dũng cảm tiến lên dưới ngọn cờ của Việt Minh, hãy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Thời cục chuyển biến mau lẹ, 11 giờ đêm ngày 13/8/1945 Ủy ban Khởi nghĩa được thành lập trước giờ Nhật đầu hàng đồng minh, Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa được công bố, Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong hai ngày 16 và 17/8 đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản kiến nghị, thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định Quốc Kỳ, Quốc Ca, cử Ủy ban Giải phóng Dân tộc, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Chỉ trong vòng gần hai tuần lễ, chính quyền của địch hoàn toàn sụp đổ, các Ủy ban nhân dân lâm thời được thành lập và ra mắt nhân dân.
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở đầu cho một thời đại mới của dân tộc, thời đại ĐỘC LẬP- TỰ DO.
80 năm đã trôi qua nhưng hình ảnh Mặt trận Việt Minh vẫn mãi mãi in sâu trong ký ức và tình cảm của mọi người Việt Nam yêu nước.
Tên gọi của Mặt trận Việt Minh gắn liền với Cách mạng Tháng Tám lịch sử - Cuộc Cách mạng đã đưa dân tộc ta từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước độc lập, tự do.
Chỉ trong một thập kỷ tồn tại và phát triển (1941 – 1951), Mặt trận Việt Minh đã thực sự trở thành biểu tượng của cả một giai đoạn lịch sử huy hoàng và vẻ vang của dân tộc, thể hiện sự nhạy bén với thời cuộc, Đảng lãnh đạo nhanh chóng thay đổi tư duy chiến lược về Cách mạng Việt Nam, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và là nhiệm vụ cấp bách.
Mặt trận Việt Minh đã tuyên truyền, vận động tập hợp, động viên toàn dân phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, vùng lên làm cách mạng Tháng Tám thành công, đã đoàn kết toàn dân đấu tranh triệt phá mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù, bảo vệ chính quyền non trẻ, đưa cách mạng nước ta vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đồng thời phát động toàn dân chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp trong suốt 9 năm, làm nên “một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, giải phóng một nửa đất nước, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước.
Với ba thành tựu có ý nghĩa lịch sử trọng đại đó, Mặt trận Việt Minh đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang, viết thêm những trang mới chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã để lại những bài học vô giá về đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng trong thời đại hiện nay.
Chỉ trong 10 năm, Mặt trận Việt Minh đã thực sự trở thành biểu tượng của cả một giai đoạn lịch sử huy hoàng và vẻ vang của dân tộc, thể hiện sự nhạy bén với thời cuộc, Đảng lãnh đạo nhanh chóng thay đổi tư duy chiến lược về Cách mạng Việt Nam, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và là nhiệm vụ cấp bách.