Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Vụ 13
Viện trưởng VKSND tối cao vừa có Quyết định số 235/QĐ-VKSTC ngày 16/6/2025 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ Hợp tác quốc tế và Tương trợ tư pháp về hình sự (Vụ 13) thuộc VKSND tối cao.
Theo Quy chế, Vụ 13 là đơn vị nghiệp vụ thuộc bộ máy làm việc của VKSND tối cao. Tên giao dịch quốc tế: Department for International Cooperation and Mutual Legal Assistance in Criminal Matters.
Vụ 13 có nhiệm vụ, quyền hạn đó là giúp Viện trưởng VKSND tối cao thực hiện công tác sau đây: Xây dựng và tổ chức thực hiện chỉ thị, kế hoạch, chương trình nhiệm vụ công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Thực hiện chức năng của cơ quan trung ương trong tương trợ tư pháp về hình sự theo quy định của pháp luật.
Đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, chương trình, dự án, phi dự án quốc tế; tham gia các cơ chế hợp tác quốc tế đa phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.
Nghiên cứu pháp luật quốc tế; kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Viện trưởng VKSND tối cao giao.

Quang cảnh một buổi Hội đàm giữa Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao và ký kết Bản ghi nhớ giữa Viện kiểm sát tối cao hai nước Việt Nam - Azerbaijan. (Ảnh minh họa)
Về nguyên tắc làm việc: Vụ 13 làm việc theo chế độ Thủ trưởng. Mọi hoạt động của Vụ 13 phải tuân thủ quy định của pháp luật, quy định của ngành Kiểm sát nhân dân và Quy chế này. Công chức thuộc Vụ 13 thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Bảo đảm tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết công việc theo đúng quy định của pháp luật, chương trình, kế hoạch, lịch làm việc và Quy chế này, trừ trường hợp đột xuất hoặc có yêu cầu khác của lãnh đạo VKSND tối cao.
Bảo đảm phát huy năng lực và sở trường của công chức, tăng cường sự phối hợp công tác, trao đổi thông tin trong giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ 13 và của ngành Kiểm sát nhân dân.
Bảo đảm giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật, quy định của VKSND tối cao.
Bảo đảm nguyên tắc dân chủ, minh bạch trong mọi hoạt động gắn với thực hiện chủ trương cải cách hành chính, cải cách công vụ của Đảng, Nhà nước và ngành Kiểm sát nhân dân.
Về tổ chức bộ máy, biên chế, theo Quy chế: Vụ 13 gồm có Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên và công chức khác.
Vụ 13 có các phòng chuyên môn gồm: Phòng Pháp luật quốc tế và tổng hợp (Phòng 1); Phòng Hợp tác quốc tế (Phòng 2); Phòng Tương trợ tư pháp về hình sự (Phòng 3).
Việc thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các phòng trực thuộc Vụ 13 do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định trên cơ sở đề nghị của Vụ trưởng Vụ 13 và Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ.
Biên chế của Vụ 13 thuộc biên chế của VKSND tối cao, do Viện trưởng quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của Vụ 13 và thẩm định của Vụ Tổ chức cán bộ.
Về quan hệ giữa Vụ 13 với các đơn vị thuộc VKSND tối cao, Quy chế nêu: Vụ 13 phối hợp với các đơn vị thuộc VKSND tối cao trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân; Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao và các nhiệm vụ khác do lãnh đạo VKSND tối cao phân công.
Trong quan hệ với VKSND cấp dưới, căn cứ vào các quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ và Chỉ thị công tác của Viện trưởng VKSND tối cao, Vụ 13 hướng dẫn nghiệp vụ và việc áp dụng pháp luật; thông báo, truyền đạt ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo VKSND tối cao cho các VKSND cấp dưới.
Trong quan hệ công tác với các cơ quan hữu quan khác, Vụ 13 có trách nhiệm liên hệ, phối hợp với các cơ quan chuyên môn của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan ngoại giao, cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam và tại nước ngoài để triển khai thực hiện công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân.
Vụ 13 thực hiện chế độ thông tin, báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của ngành Kiểm sát nhân dân.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 23/QĐ-VKSTC-V2 ngày 20/10/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao.