Vị thế Việt Nam

Sức mạnh mềm ngày nay trở thành trụ cột quan trọng để nâng tầm vị thế quốc gia, không chỉ ở kinh tế hay quân sự mà còn ở văn hóa, giá trị chính trị và ngoại giao thuyết phục. Với Việt Nam, từ tư tưởng 'ngoại giao tâm công' của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến hành trình hội nhập sâu rộng gần 40 năm qua, sức mạnh mềm đã giúp đất nước khẳng định uy tín, mở rộng hợp tác và định vị tầm vóc mới trên trường quốc tế.

Sức mạnh mềm tác động đáng kể đến vị thế của một quốc gia bằng cách định hình nhận thức và có thể ảnh hưởng đến sở thích của các quốc gia khác, người dân của họ thông qua các chính sách ngoại giao. Một chiến lược định vị mạnh mẽ bao gồm việc phát triển kinh tế, xây dựng thể chế chính trị, văn hóa với giá trị tinh hoa của dân tộc và đặc biệt là chính sách đối nội và đối ngoại của một quốc gia một cách nhất quán theo cách hấp dẫn và thuyết phục, thúc đẩy hình thành những ấn tượng tích cực và thiện chí toàn cầu. Theo các nhà nghiên cứu, việc sử dụng thành công quyền lực mềm nằm ở ba nguồn lực: văn hóa của một quốc gia, các giá trị chính trị của quốc gia và chính sách đối ngoại của quốc gia đó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ khi mới thành lập nhà nước dân chủ đầu tiên ở châu Á ngày 02/09/1945, đã vận dụng ngay nguồn lực mềm trong việc đặt tên nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” với bản tuyên ngôn bất hủ cho dân tộc Việt. Tư tưởng thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với quan điểm chính trị “Tự do và Dân chủ” đã được sự ủng hộ của toàn thế giới kể cả phương Tây. Chính sách “ngoại giao tâm công” của Người trong thời kỳ đất nước khó khăn nhất với chiến lược “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của văn hóa phương Đông cũng đã trở thành giá trị cốt lõi thực hành của ngành ngoại giao trong cả quá trình 80 năm qua.

Sau gần 40 năm đổi mới đất nước đạt nhiều kết quả toàn diện, có ý nghĩa quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế đất nước chưa từng có trên trường quốc tế. Từ một quốc gia bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước, có quan hệ đối tác toàn diện trở lên với 37 quốc gia, tham gia 17 Hiệp định thương mại tự do và là thành viên của hơn 70 tổ chức quốc tế. Việt Nam cho đến nay đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia trên thế giới. Không chỉ hội nhập sâu rộng về kinh tế, Việt Nam còn chủ động tham gia các thể chế đa phương, dẫn dắt hoặc đồng sáng lập các sáng kiến quốc tế phù hợp với lợi ích quốc gia. Về văn hóa - xã hội, quá trình hội nhập giúp lan tỏa mạnh mẽ bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới, đồng thời mở rộng không gian học hỏi, giao lưu cho người dân. Hơn nữa, trong quá trình đó, Việt Nam từ vị thế là đối tượng đã trở thành chủ thể của các vấn đề an ninh trên thế giới khi mới đây đã 2 lần đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Tổng Bí thư Tô Lâm và Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tới dự lễ kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Ngoại giao Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2025)

Tổng Bí thư Tô Lâm và Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tới dự lễ kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Ngoại giao Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2025)

Hiện nay, trong một thế giới biến động với sự cạnh tranh giữa các siêu cường và các xung đột lãnh thổ, chúng ta đang chứng kiến ba xu hướng cơ bản mới nổi tác động mạnh mẽ lên chính sách đối ngoại:

Thứ nhất, thế giới thay đổi với nguồn lực tài chính và vũ khí công nghệ cao đang là đòn bẩy chủ yếu trong quan hệ đối ngoại. Thị trường với các chính sách thuế quan đối ứng trực tiếp và thứ cấp đang chi phối buộc các nước phải công khai minh bạch… Ngoài ra, cạnh tranh công nghệ đặc biệt là trong lĩnh vực chất bán dẫn và AI đang định vị lại những vấn đề địa chính trị toàn cầu.

Thứ hai, sách lược ngoại giao theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” ngày càng phụ thuộc nhiều vào kỹ năng đàm phán, bên cạnh thực lực quyền lực cứng thì việc xây dựng lòng tin, ngôn ngữ giao tiếp, sáng kiến… giữ vai trò quyết định để đạt kết quả hợp tác tối ưu nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cũng như xử lý hài hòa giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và nghĩa vụ, trách nhiệm quốc tế.

Thứ ba, sự gia tăng mối quan hệ giữa các quốc gia trên toàn cầu cùng với sự phát triển của công nghệ số làm cho các nền văn hóa khác nhau dễ tiếp cận và thuận tiện hơn để giao thoa. Sự chuyển dịch trong quan hệ quốc tế từ quyền lực cứng, chẳng hạn như sức mạnh quân sự, sang quyền lực mềm, dựa trên sức hấp dẫn văn hóa và các giá trị chính trị. Một quốc gia phát triển trong thế kỷ 21, bên cạnh yêu cầu có nền kinh tế phát triển, có trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến còn phải có nền văn hóa có ảnh hưởng, bao gồm âm nhạc, phim ảnh, phong tục tập quán cùng các hình thức nghệ thuật, lối sống và giải trí khác.

Nhận thức rõ các xu hướng mới trong quan hệ quốc tế và nhằm triển khai mạnh mẽ Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về "Hội nhập quốc tế trong tình hình mới", chúng ta nên chăng cần thực hiện tốt 4 nội dung cơ bản để nâng tầm hơn nữa chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Đầu tiên, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu các xu hướng quan hệ đối ngoại trên thế giới và các nguồn lực phát triển kinh tế, đặc biệt là nguồn lực tài chính, các sản phẩm công nghệ cao. Ngoài ra cần nghiên cứu đổi mới các động lực tăng trưởng truyền thống như đầu tư, xuất khẩu, du lịch thông qua đa dạng hóa một cách minh bạch thị trường, sản phẩm và chuỗi cung ứng nhằm thích ứng với các chính sách thuế đối ứng của các thị trường trọng điểm. Từ đó đề xuất các chiến lược của công tác đối ngoại hiệu quả hơn cho đất nước.

Thứ hai, gắn kết ngoại giao kinh tế với hội nhập quốc tế, chủ động đàm phán và tham gia định hình thể chế pháp lý toàn cầu trong các lĩnh vực chiến lược. Tập trung tối đa các trọng tâm kinh tế trong các hoạt động đối ngoại, đặc biệt là ở cấp cao và các ưu tiên trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, bảo đảm tính chiến lược, tính khả thi và hiệu quả triển khai.

Thứ ba, đối ngoại nhân dân sẽ phát huy được thế mạnh gắn kết con người, xây dựng nguồn lực xã hội thuận lợi đưa quan hệ giữa các quốc gia đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, huy động nguồn lực quốc tế, sự đoàn kết, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân thế giới. Cần tăng cường ngoại giao văn hóa bằng cách tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế, triển lãm và hợp tác với các nghệ sĩ và tổ chức nước ngoài. Thúc đẩy quan hệ đối tác giáo dục quốc tế nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau và thể hiện cam kết của một quốc gia đối với giáo dục và đổi mới toàn cầu.

Thứ tư, sự trỗi dậy của Internet và mạng xã hội đã phá vỡ các phương pháp truyền thống. Cần nhận thức sâu sắc mối quan hệ hữu cơ giữa các chiến lược truyền thông và khả năng thể hiện ảnh hưởng toàn cầu của một quốc gia để có chiến lược xây dựng và duy trì hình ảnh quốc gia. Khi toàn cầu hóa và các nền tảng kỹ thuật số kết nối thế giới, vai trò của các chiến lược này trong việc định hình hình ảnh quốc gia ngày càng trở nên quan trọng.

Tóm lại, cùng với việc phát triển sức mạnh cứng (vật chất), phát huy sức mạnh mềm là nguồn lực xã hội mạnh mẽ để xây dựng vị thế “Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì dân”, một đất nước hùng cường, có uy tín và nhân văn trên thế giới. Qua đó, phát triển chính sách ngoại giao lên tầm cao mới nhằm góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh từ sớm, từ xa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực vào việc định vị đất nước Việt Nam có thể sánh vai với các nước phát triển trong khu vực và thế giới khi chúng ta kỷ niệm 100 năm thành lập nhà nước dân chủ đầu tiên ở châu Á.

*Nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

TS. Đoàn Duy Khương

Nguồn DNSG: https://doanhnhansaigon.vn/vi-the-viet-nam-321675.html
Zalo