Vị thế, động lực và văn hóa nghề nghiệp tạo nên sức mạnh đặc biệt của đội ngũ nhà giáo Việt Nam
Nhân dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, chuyên gia giáo dục, TSKH. PHẠM ĐỖ NHẬT TIẾN chia sẻ về những kết quả nổi bật của giáo viên Việt Nam trong báo cáo TALIS 2024. Qua góc nhìn so sánh quốc tế, vị thế và những đặc trưng nghề nghiệp của giáo viên Việt Nam tiếp tục được khẳng định, đặt ra nhiều gợi mở quan trọng cho chính sách phát triển đội ngũ trong giai đoạn thực thi Luật Nhà giáo.
Mới đây, tháng 10/2025, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) công bố báo cáo mang tên “Kết quả từ cuộc Khảo sát quốc tế về dạy và học (TALIS) 2024: Tình hình giảng dạy”.
Khảo sát TALIS được thực hiện ở ba cấp học của giáo dục phổ thông. Trong mỗi cấp học ở mỗi hệ thống giáo dục, một mẫu đại diện khoảng 4.000 giáo viên từ 200 trường học sẽ hoàn thành khảo sát cùng với hiệu trưởng nhà trường.

Học sinh của Trường Tiểu học Công nghệ giáo dục Hà Nội (CGD School). Ảnh: VGP
Vị thế nghề dạy học của Việt Nam thuộc nhóm cao nhất thế giới
-Thưa ông, báo cáo TALIS 2024 vừa công bố đưa ra những kết quả khá ấn tượng về giáo viên Việt Nam. Ông có thể chia sẻ những điểm nổi bật nhất?
Chuyên gia Phạm Đỗ Nhật Tiến: TALIS 2024 khảo sát hơn 50 hệ thống giáo dục trên thế giới. Việt Nam tham gia ở cấp THCS, và kết quả cho thấy giáo viên Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có tỷ lệ cao nhất hoàn thành các mục tiêu bài học.
Có đến 72% giáo viên Việt Nam tự đánh giá rằng họ đạt mục tiêu bài học “khá nhiều” hoặc “nhiều” trên cả bảy tiêu chí: giảng dạy rõ ràng, kích hoạt nhận thức, phản hồi, củng cố, điều chỉnh, hỗ trợ học sinh và quản lý lớp học. Trong khi đó, mức trung bình của OECD chỉ là 40%. Đây là mức chênh rất lớn và phản ánh chất lượng nghề nghiệp đáng ghi nhận của giáo viên Việt Nam.
Điểm đáng nói là kết quả này không chỉ mang tính cảm tính. Nó được đối chiếu với toàn bộ dữ liệu về động lực nghề nghiệp, vị thế xã hội và chế độ làm việc, tạo thành bức tranh nhất quán về sức mạnh của đội ngũ giáo viên. Riêng về sự hài lòng trong công việc và ý định rời bỏ nghề dậy học, ở Việt Nam 97% giáo viên cho biết họ hài lòng với công việc của mình (thuộc top 3 các nước tham gia khảo sát, cao hơn mức trung bình của OECD). 89% giáo viên cho biết nếu được quyết định lại, họ vẫn sẽ chọn làm giáo viên.
- Trong khi giáo viên ở nhiều nước OECD gặp áp lực rất lớn, nhưng giáo viên Việt Nam lại có mức độ căng thẳng thấp. Điều này có ý nghĩa như thế nào?
Chuyên gia Phạm Đỗ Nhật Tiến: Trong Báo cáo TALIS 2024, động lực nội tại được xác định là một nguồn lực cá nhân quan trọng, có khả năng giảm thiểu tác động tiêu cực của các yêu cầu công việc và yếu tố căng thẳng, từ đó củng cố sự gắn bó và kết quả chuyên môn.
Động lực nội tại của giáo viên được đánh giá qua hai tiêu chí. Một là cảm nhận của giáo viên về lợi ích xã hội của nghề dạy học, hai là niềm vui dạy học.
TALIS 2024 cho thấy chỉ 4% giáo viên Việt Nam báo cáo căng thẳng “rất nhiều”, so với mức 19% của OECD. Chỉ 3% cho biết công việc ảnh hưởng tiêu cực “rất nhiều” tới sức khỏe tinh thần và thể chất – tất cả đều thấp hơn OECD từ 2 đến 3 lần.
Điều quan trọng là chỉ số này không hề thay đổi từ 2018 đến 2024, nghĩa là Việt Nam duy trì được một môi trường nghề nghiệp ổn định, không tạo ra áp lực leo thang như nhiều nước khác.
Đi cùng với đó, Việt Nam có 97% giáo viên hài lòng với công việc, thuộc top 3 trong toàn bộ hệ thống tham gia khảo sát. Và chỉ dưới 6% giáo viên có ý định rời bỏ nghề trong 5 năm tới – thấp nhất trong tất cả các quốc gia khảo sát. Đây là con số cực kỳ đặc biệt.
-TALIS cũng đề cập rất nhiều đến “vị thế nghề nghiệp”. Vậy trong khảo sát này, vị thế của giáo viên Việt Nam được thể hiện ra sao?
Chuyên gia Phạm Đỗ Nhật Tiến: Các nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng vị thế nghề dạy học có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hút người giỏi đến với nghề dạy học, giữ chân nhà giáo trong nghề, và qua đó nâng cao chất lượng giáo dục.
Vì thế khảo sát TALIS quan tâm xác định vị thế nghề dạy học qua các ý kiến phản hồi của giáo viên liên quan đến góc nhìn của xã hội, của các nhà hoạch định chính sách, và của truyền thông.
Kết quả khảo sát cho thấy Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ cao nhất giáo viên “đồng ý” hoặc “rất đồng ý” rằng nghề dạy học được coi trọng từ cả ba phía: xã hội (92,2%), Nhà nước (87,1%), và truyền thông (86,5%). Các tỷ lệ này cao gấp 4 đến 5 lần so với mức trung bình của OECD khi mà các tỷ lệ trung bình ở OECD lần lượt là 21,7%, 16,1%, và 19,8%.
Sự tôn trọng sâu sắc và rộng khắp này tạo ra một cảm giác tự hào và ý nghĩa nghề nghiệp vượt trội, định hình bản sắc nghề nghiệp của giáo viên Việt Nam. Mức độ coi trọng cực cao của cả Nhà nước, xã hội và truyền thông đối với giáo viên và nghề dạy học là yếu tố giải thích hợp lý cho tỷ lệ giáo viên cao nhất (72%) trong việc hoàn thành đầy đủ các mục tiêu bài học, tỷ lệ rời bỏ nghề thấp kỷ lục (6%) của Việt Nam, tỷ lệ cao nhất giáo viên mới vào nghề cho biết nghề dạy học là lựa chọn nghề nghiệp đầu tiên của họ (91%).
Đó không chỉ là một yếu tố thúc đẩy mà là nền tảng văn hóa nghề nghiệp. Nó tạo ra một giá trị văn hóa-xã hội cao, có chức năng bù đắp cho các thiếu hụt tiềm năng về các yếu tố ngoại tại như thu nhập. Trong khi giáo viên OECD có thể cần cải thiện đáng kể về lương bổng để giảm ý định nghỉ việc (trung bình toàn cầu, sự hài lòng về lương bổng có tác động tích cực trong việc giảm 25% ý định rời bỏ nghề), giáo viên Việt Nam đã có một nguồn vốn tinh thần vững chắc để chống lại những bất cập chưa kịp khắc phục trong chính sách đãi ngộ và môi trường làm việc. Đây là đặc trưng nổi trội: hệ thống giáo dục Việt Nam giữ chân giáo viên bằng niềm tin xã hội và danh dự nghề nghiệp ở mức độ cao nhất thế giới.

Cô và trò Trường THCS Chu Văn An, phường Tây Hồ, Hà Nội bước vào năm học mới - Ảnh: VGP/Đỗ Cường
Ổn định nghề nghiệp – Nền tảng nâng cao hạnh phúc nhà giáo
-Về chế độ làm việc, TALIS 2024 ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực đối với giáo viên Việt Nam. Ông đánh giá thế nào?
-Chuyên gia Phạm Đỗ Nhật Tiến: Chế độ làm việc của nhà giáo có tương quan mật thiết đến sự hạnh tồn, sự hài lòng trong công việc và sự gắn bó với nghề nghiệp của nhà giáo. Trong khảo sát TALIS, chế độ làm việc của nhà giáo được xác định qua các ý kiến phản hồi của giáo viên về các vấn đề liên quan đến sự ổn định trong công việc, thời gian làm việc, các điều khoản hợp đồng, tiền lương, sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn.
Trước hết về sự ổn định trong công việc, trong bức tranh chung của các hệ thống giáo dục trên thế giới bảo đảm trung bình 80% giáo viên có hợp đồng làm việc không xác đinh thời hạn, thì ở Việt Nam tỷ lệ này là 91,5%, vào loại cao nhất trên thế giới, chỉ sau một số nước, bao gồm Đan Mạch (97%), Latvia (96,2%), Pháp (93,7%), Lithuania (92,4%), Croatia (92,2%). Tỷ lệ cao này đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút người giỏi đến với nghề dạy học và giữ chân giáo viên giỏi trong nghề, bởi lẽ ở Việt Nam cũng như mọi nơi trên thế giới, phần lớn giáo viên, cũng như mọi người làm công ăn lương, đều mong muốn có sự ổn định trong công việc để yên tâm làm việc và thăng tiến với nghề.
Về các điều khoản tuyển dụng, bao gồm phúc lợi (trừ lương), lịch làm việc và các khía cạnh khác của công việc, 77% giáo viên Việt Nam “đồng ý” hoặc “hoàn toàn đồng ý” rằng họ hài lòng với các điều khoản tuyển dụng, cao hơn mức trung bình của OECD (68%) và mức trung bình của các TALIS (67,5%). Mức độ hài lòng này không thay đổi kể từ năm 2018 và cũng như nhau giữa giáo viên thành phố và nông thôn. Đây chính là một yếu tố thể hiện nhất quán về sự hài lòng trong công việc và ý định gắn bó với nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục.
Về tiền lương, dữ liệu TALIS 2024 cho thấy tỷ lệ giáo viên Việt Nam hài lòng với tiền lương là 58,2%, cao hơn rõ rệt (gần 20 điểm phần trăm) so với mức trung bình của các quốc gia OECD (38,7%). Mức độ hài lòng của giáo viên nông thôn cao hơn giáo viên thành phố 8 điểm phần trăm. Ngoài ra, từ năm 2018 đến năm 2024, mức độ hài lòng của giáo viên Việt Nam với tiền lương đã tăng 6 điểm phần trăm.
Điều này phản ánh rằng, bất chấp những lo ngại và tranh luận trong nước về vấn đề tiền lương, mức độ hài lòng thực tế của đội ngũ giáo viên Việt Nam đối với thu nhập của họ là tương đối cao, hoặc ít nhất là cao hơn so với cảm nhận chung của giáo viên tại các nước phát triển. Hơn nữa, các chính sách cải cách tiền lương và điều chỉnh mức lương cơ sở trong giai đoạn vừa qua đã có tác động rõ rệt, cải thiện đáng kể nhận thức của giáo viên về thu nhập của họ.
-Từ những số liệu trên, theo ông, đâu là những thông điệp quan trọng cho giai đoạn triển khai Luật Nhà giáo?
Chuyên gia Phạm Đỗ Nhật Tiến: Từ dữ liệu của TALIS 2024, có thể rút ra ba nhận định lớn:
Thứ nhất, với việc kiên trì xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo suốt 40 năm đổi mới giáo dục vừa qua, chúng ta đã thành công trong việc tạo dựng một đội ngũ giáo viên có vị thế nổi trội, nhìn từ góc độ so sánh quốc tế, trong việc hoàn thành các kết quả đầu ra trong hoạt động nghề nghiệp của mình.
Thứ hai, sự quan tâm sâu sắc và kiên định của Nhà nước, xã hội và truyền thông đối với nhà giáo và nghề dạy học đã tạo nên một vốn xã hội nghề nghiệp có giá trị cao, với tư cách là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc tạo ra thành công nói trên.
Thứ ba, sự cải thiện về chế độ đãi ngộ đã góp phần cùng với vốn xã hội nghề nghiệp tạo động lực vững chắc không chỉ giúp giữ chân đội ngũ hiện tại mà còn đảm bảo chất lượng đầu vào cao cho nghề dạy học, củng cố niềm tin của giáo viên vào cam kết của chính phủ đối với phúc lợi nghề nghiệp.
Đây là những điểm mạnh căn bản cần được tiếp tục duy trì và tăng cường trong thời gian tới khi triển khai Luật Nhà giáo để bảo đảm rằng nhà giáo Việt Nam có đầy đủ phẩm chất, năng lực và động lực với tư cách là lực lượng quan trọng hàng đầu trong việc tổ chức thực hiện thành công Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục.
- Xin cảm ơn ông!






























