Vì sao người dân chưa mặn mà với trồng rừng gỗ lớn?

Mặc dù trồng rừng gỗ lớn được đánh giá mang lại nhiều giá trị bền vững, song chu kỳ sinh trưởng kéo dài, chi phí cao và rủi ro lớn. Trong khi đó, đời sống người dân còn nhiều khó khăn, chính sách hỗ trợ lại chưa đủ sức hấp dẫn, khiến hiệu quả kinh tế ban đầu chưa rõ nét, người dân vẫn chưa thực sự mặn mà.

Cán bộ Hạt Kiểm lâm Như Thanh cùng chủ rừng kiểm tra diện tích rừng gỗ lớn.

Cán bộ Hạt Kiểm lâm Như Thanh cùng chủ rừng kiểm tra diện tích rừng gỗ lớn.

Những ngày này, giá keo nguyên liệu trên địa bàn tỉnh đang giữ ở mức cao, nhiều hộ nông dân phấn khởi chờ đến ngày khai thác. Nhưng cũng không ít gia đình vì điều kiện kinh tế khó khăn đã buộc phải bán keo non để có tiền trang trải cuộc sống. Trò chuyện về mô hình trồng rừng gỗ lớn, nhiều nông dân thẳng thắn cho rằng, trồng 5 - 7 năm còn cố chờ được, chứ hơn 10 năm thì lấy gì để ăn?. Hiện nay, mỗi héc-ta rừng trồng gỗ lớn được Nhà nước hỗ trợ 15 triệu đồng, nhưng với các hộ nghèo, đặc biệt là người dân miền núi chỉ trông chờ vào rừng, không có nguồn thu nhập khác thì thời gian trồng và mức hỗ trợ từ chính sách được cho là không đảm bảo.

Chị Hà Thị B. ở xã Đồng Lương, chia sẻ: “Gia đình tôi cũng được cán bộ lâm nghiệp vận động chuyển sang trồng gỗ lớn. Nhưng hoàn cảnh khó khăn, phải vay vốn ngân hàng mới trồng được. Giờ thấy giá cao nên buộc phải khai thác sớm để bán, chờ thêm vài năm nữa mới đến chu kỳ thu hoạch thì không biết lấy gì để ăn, rủi ro lại cao!”. Tương tự, ông Nguyễn Trọng Th., một chủ rừng ở xã Như Xuân, cho rằng: “Trồng rừng với chu kỳ 5 - 7 năm đã khó, chỉ mong tới ngày khai thác, có thêm nguồn thu nhập. Nếu bà con kéo dài thêm 4 - 5 năm nữa rất khó để xoay sở vốn, duy trì cuộc sống thường nhật”. Ông Th. kiến nghị: “Phải có sự hỗ trợ của Nhà nước bằng các chính sách, cơ chế đảm bảo; hoặc doanh nghiệp có liên kết, đảm bảo bao tiêu ổn định thì bà con mới yên tâm tham gia”.

Thực tế, nhiều hộ dân có đất rừng sản xuất đều là hộ nghèo hoặc cận nghèo nên rất khó để duy trì chu kỳ sản xuất dài của rừng gỗ lớn, trong khi vẫn phải gồng gánh chi phí sinh hoạt và trả nợ. Trường hợp gia đình chị Vi Thị H., ở xã Văn Phú, do áp lực về thu nhập, nhiều thời điểm chị buộc phải bán keo non cho thương lái để lo trang trải cuộc sống, không thể theo đuổi mô hình trồng gỗ lớn. Không chỉ nông dân, doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn, bởi vùng nguyên liệu gỗ lớn thường xuyên biến động. Ông Lê Chí Liệu, quản lý Nhà máy Chế biến gỗ Như Xuân, cho biết: “Nhà máy cần khoảng 50.000 tấn keo mỗi năm để chế biến dăm gỗ xuất khẩu, nhưng vùng nguyên liệu tại chỗ đang bị thu hẹp. Một phần vì cạnh tranh không lành mạnh của cơ sở thu mua tự phát, phần nữa vì nhiều hộ dân mang tâm lý “ăn xổi”, ai mua giá cao thì bán. Điều này khiến liên kết giữa người dân với doanh nghiệp chế biến chưa tìm được tiếng nói chung. Hệ quả là chuỗi giá trị lâm nghiệp khó bền vững, doanh nghiệp thiếu nguồn cung ổn định, còn người dân thì không có chỗ dựa chắc chắn để chuyển sang trồng rừng gỗ lớn".

Theo ông Nguyễn Ngọc Huy, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Lang Chánh, trên địa bàn hạt quản lý hiện có khoảng 9.000ha keo, tuy nhiên diện tích đăng ký rừng gỗ lớn từ loại cây trồng này chiếm diện tích rất nhỏ. Năm 2025, đơn vị đã đăng ký hơn 320ha diện tích rừng gỗ lớn với tỉnh, chủ yếu là loại keo nuôi cấy mô, nhưng tỷ lệ hộ dân tham gia rất thấp. Tương tự, ông Lại Thế Chiến, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Như Thanh, cho rằng: Việc phát triển các mô hình trồng thâm canh bằng giống nuôi cấy mô kết hợp xen cây ngắn ngày đã, đang đem lại những tín hiệu tích cực. Nếu xét về thu nhập từ rừng gỗ lớn thì đạt trung bình 250 - 300 triệu đồng/ha trong chu kỳ 7 - 10 năm, cao gấp 2 - 3 lần rừng gỗ nhỏ. Bên cạnh đó, rừng gỗ lớn còn góp phần cải thiện môi trường, chống xói mòn, nâng cao chất lượng sống cho đồng bào miền núi. Song, con số trên vẫn còn rất hạn chế so với tiềm năng, dư địa hiện có. Phát triển rừng gỗ lớn đang gặp nhiều khó khăn, không chỉ với địa phương mà đây là thực trạng chung của cả tỉnh. Hiện tại, rừng gỗ lớn chủ yếu mới chỉ tập trung ở diện tích rừng do Nhà nước quản lý.

Thống kê cho thấy, diện tích rừng gỗ lớn toàn tỉnh đang duy trì ổn định khoảng 56.000ha, tập trung ở các huyện miền núi cũ, như: Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Lang Chánh, Cẩm Thủy... Các loài cây chủ lực gồm keo tai tượng Úc, trẩu, xoan ta, lát hoa, lim xanh; trong đó có hơn 30 nghìn héc-ta rừng đạt Chứng chỉ FSC, gắn với chuỗi liên kết sản xuất giữa chủ rừng với doanh nghiệp. Để thực sự khuyến khích người dân tham gia trồng rừng gỗ lớn, nhiều chuyên gia cho rằng cần cơ chế đột phá hơn trong chính sách hỗ trợ. Ngoài vốn ngân sách, cần đa dạng hóa nguồn lực từ các chương trình, dự án và xã hội hóa. Đồng thời, có cơ chế ràng buộc trách nhiệm cả với chủ rừng lẫn doanh nghiệp, nhằm bảo đảm sự gắn kết bền vững trong chuỗi giá trị. Chi cục Kiểm lâm tỉnh cũng đang thúc đẩy xây dựng, nhân rộng các mô hình HTX lâm nghiệp, đẩy nhanh cấp Chứng chỉ FSC, gắn chế biến với xuất khẩu. Song song với đó, ngành lâm nghiệp đang chú trọng phát triển các giống cây phù hợp, giống nuôi cấy mô, hình thành vùng nguyên liệu gỗ lớn tập trung có khả năng cạnh tranh cao.

Có thể khẳng định, chỉ khi lợi ích hài hòa giữa người trồng rừng, doanh nghiệp chế biến và Nhà nước, mô hình rừng gỗ lớn mới thực sự trở thành hướng đi bền vững, vừa nâng cao thu nhập cho người dân, vừa tạo đột phá cho ngành lâm nghiệp Thanh Hóa.

Bài và ảnh: Đình Giang

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/vi-sao-nguoi-dan-chua-man-ma-voi-trong-rung-go-lon-260691.htm
Zalo