Vì sao Đông Nam Á liên tục chịu lũ?

Bão lũ liên tiếp bao trùm Đông Nam Á những tuần qua, gây ngập diện rộng và phá kỷ lục nhiều nơi. Chuyên gia cảnh báo tình trạng này có thể nặng nề hơn trong những năm tới.

 Công an xã Ia Pa (Gia Lai) cõng người dân vượt mưa lũ vào ngày 19/11. Ảnh: Đỗ Hòa Bình.

Công an xã Ia Pa (Gia Lai) cõng người dân vượt mưa lũ vào ngày 19/11. Ảnh: Đỗ Hòa Bình.

Miền Nam Thái Lan chìm trong lũ, nhiều tỉnh, thành ở Việt Nam bị cô lập bởi đợt ngập kỷ lục, Philippines gồng mình khắc phục hậu quả sau hai cơn bão liên tiếp còn Malaysia chuẩn bị đối mặt mùa mưa kéo dài và nặng nề.

Chỉ trong vài tuần, Đông Nam Á trải qua một trong những mùa mưa khắc nghiệt nhất suốt nhiều năm, lũ lụt và bão trải rộng từ Vịnh Thái Lan đến Thái Bình Dương. Hàng triệu người phải sơ tán, hàng trăm người thiệt mạng.

Các chuyên gia nhận định với CNA rằng sự hội tụ bất thường của nhiều hệ thống thời tiết cùng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đã khiến khu vực rơi vào vòng xoáy thiên tai liên tiếp.

 Nước lũ dâng cao ở Hat Yai (Thái Lan). Ảnh: Khaosod English.

Nước lũ dâng cao ở Hat Yai (Thái Lan). Ảnh: Khaosod English.

Vì sao bão lũ liên tiếp kéo đến?

Cụ thể, theo các chuyên gia, La Nina và Dipole Ấn Độ Dương pha âm đã cùng xuất hiện bất thường trong mùa này, khiến lượng mưa trên khắp khu vực gia tăng mạnh. Trong khi đó, khả năng thích ứng của khu vực đang thua xa tốc độ nóng lên toàn cầu.

Trong vài tháng qua, hiện tượng La Nina - xảy ra khi vùng trung tâm Thái Bình Dương lạnh đi, đẩy nhiệt về phía tây và tăng cường mưa gió mùa trên khu vực Đông Nam Á hải đảo - đã duy trì liên tục. Dù không mạnh như một số năm trước, La Nina vẫn đủ làm gia tăng lượng mưa và củng cố mô hình gió mùa, đặc biệt khi kết hợp với Dipole Ấn Độ Dương pha âm.

Kiểu khí hậu này đặc trưng bởi vùng nước ấm hơn bình thường gần Indonesia, hút thêm ẩm và làm tăng lượng mưa trong khu vực. Thông thường, La Nina và Dipole Ấn Độ Dương không đạt đỉnh cùng thời điểm vì hình thành từ các lưu vực đại dương khác nhau, chịu tác động của các mô hình tuần hoàn riêng và mùa vụ khác nhau.

Trong mùa mưa năm nay, sự tương phản kỳ lạ đã xảy ra. Nhiệt độ bề mặt nước biển ở trung tâm Thái Bình Dương giảm, nhưng vùng biển ngoài khơi phía đông Việt Nam trên Biển Đông và khu vực phía đông Philippines lại ấm bất thường. Hiện tượng này chính là điều kiện lý tưởng để tạo ra lượng mưa cực lớn.

Yếu tố nóng lên toàn cầu cũng tiếp tục khuếch đại sức tàn phá của các hiện tượng cực đoan. Năm 2024 là năm nóng nhất từng được ghi nhận với nhiệt độ trung bình toàn cầu cao hơn khoảng 1,55 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp, theo Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO).

“Nhiệt độ cao ảnh hưởng trực tiếp đến lượng hơi ẩm mà khí quyển có thể giữ, và cuối cùng dẫn tới mưa lớn, lũ lụt, sạt lở đất… Không khí ấm giữ được nhiều hơi nước hơn, đồng nghĩa mưa sẽ lớn hơn và dữ dội hơn”, giáo sư, nhà khí tượng học Fredolin Tangang tại Đại học Quốc gia Malaysia nói với CNA.

Tổ chức Khí tượng Thế giới nêu thêm rằng châu Á đang ấm lên gần gấp đôi tốc độ trung bình toàn cầu. Bên cạnh đó, các hiện tượng thời tiết không chỉ chịu chi phối bởi nhiệt độ tại chỗ mà còn bởi điều kiện khu vực. Đây là thông tin được giáo sư Zelina Zaiton Ibrahim tại Khoa Lâm nghiệp và Môi trường, Đại học Putra Malaysia, lý giải. Vì vậy, gió mùa thổi qua Malaysia cũng bị tác động bởi biến động nhiệt độ ở Trung Quốc và Australia.

La Nina được dự báo kéo dài đến đầu năm 2026. Nguy cơ mưa bất thường có thể tiếp diễn đến đầu năm mới, dù các mô hình khí hậu cho thấy diễn biến sẽ không ổn định. Khi đất đã ngấm nước lũ, chỉ cần một đợt mưa vừa cũng có thể kích hoạt thêm lũ lụt mới hoặc sạt lở đất.

 Đường phố ngập rác sau trận bão lớn ở Navotas, Philippines. Ảnh: CNA.

Đường phố ngập rác sau trận bão lớn ở Navotas, Philippines. Ảnh: CNA.

Không thể ngồi yên

Trong các năm tới, số lượng bão tại khu vực Đông Nam Á có thể không tăng nhưng cường độ sẽ mạnh hơn năm 2025. Lượng mưa được dự báo thất thường hơn, các đợt cực đoan xuất hiện với tần suất dày đặc và đi kèm nhiều rủi ro tổng hợp, gây áp lực lớn lên hệ thống dự báo và ứng phó của các nước trong khu vực.

Trước bối cảnh đó, ông Fredolin Tangang cho rằng các chính phủ cần đầu tư mạnh hơn vào thích ứng khí hậu để giảm tác động và tăng khả năng chống chịu.

Những biện pháp này bao gồm nâng cấp hệ thống kênh rạch, thoát nước, phát triển hạ tầng xanh có khả năng giữ nước tự nhiên, bảo vệ bờ biển, tăng cường dự báo thông minh và củng cố năng lực ứng phó cộng đồng.

Tại Việt Nam, PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, nhấn mạnh việc nâng cao năng lực kỹ thuật địa phương và nhận thức cộng đồng là yêu cầu cấp thiết để người dân có thể thích ứng với khí hậu đang thay đổi nhanh chóng.

Còn tại Thái Lan, lũ lụt nghiêm trọng tại Hat Yai là minh chứng cho cuộc khủng hoảng diễn ra nhanh hơn khả năng thích ứng của quốc gia này.

Theo ông Seree Supratid, Giám đốc Trung tâm Biến đổi Khí hậu và Thảm họa tại Đại học Rangsit, Thái Lan đáng lẽ có thể làm tốt hơn. Ông cho rằng mức độ nghiêm trọng xuất phát từ việc thiếu lập kế hoạch và phản ứng chậm. Nếu kế hoạch quản lý thảm họa quốc gia được triển khai đầy đủ, tình hình đã không leo thang đến mức này.

Trong bối cảnh lực lượng chức năng dồn toàn bộ ưu tiên cho phản ứng khẩn cấp, các chuyên gia nhấn mạnh rằng thách thức lớn hơn nằm ở việc chuẩn bị cho mùa bão tiếp theo bởi điều chắc chắn sẽ xảy ra.

“Đông Nam Á là khu vực dễ tổn thương, khả năng thích ứng thấp, và điều đó khiến tác động ngày càng nghiêm trọng hơn trong tương lai. Đây không phải vấn đề có thể giải quyết dễ dàng, bởi biến đổi khí hậu vận hành ở quy mô toàn cầu", ông Tangang cảnh báo.

Thái An

Nguồn Znews: https://znews.vn/vi-sao-dong-nam-a-lien-tuc-chiu-lu-post1606076.html