Vật liệu xanh: Nguồn tài nguyên dồi dào nhưng thị trường ì ạch

Việt Nam có lợi thế gỗ, tre, rơm rạ, nhưng thị trường vật liệu xây dựng xanh vẫn chậm phát triển vì chi phí cao, thiếu chuẩn và hạn chế nhận thức.

Gạch không nung góp phần bảo vệ môi trường. Ảnh minh họa: Bộ Giao thông vận tải

Gạch không nung góp phần bảo vệ môi trường. Ảnh minh họa: Bộ Giao thông vận tải

Gỗ, tre, rơm rạlợi thế phát triển vật liệu xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp và nguồn tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt, việc sử dụng vật liệu xanh trong ngành xây dựng không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính mà còn góp phần tiết kiệm năng lượng, giảm ô nhiễm môi trường.

Theo ông Phạm Đức Nhuận, Phân viện Vật liệu xây dựng miền Nam, Viện Vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng, tại Việt Nam, nhu cầu vật liệu xây dựng ngày càng tăng cao đang đặt ra bài toán lớn về quản lý tài nguyên và phát thải.

Trung bình ngành xi măng Việt Nam sản xuất khoảng 100 triệu tấn/năm, đóng góp đến khoảng 10% tổng lượng CO2 phát thải của quốc gia. Trong khi đó, lượng chất thải có khả năng tái sử dụng như tro bay, xỉ thép, bùn đỏ..., hàng năm lên đến hàng chục triệu tấn nhưng tỷ lệ tái chế vẫn thấp.

Vì vậy, việc dùng vật liệu xanh trong xây dựng không còn là lựa chọn mang tính tự nguyện, mà đã trở thành xu hướng tất yếu của ngành xây dựng trên toàn cầu. Đây cũng là yếu tố then chốt để thúc đẩy ngành xây dựng phát triển bền vững, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường quốc tế và cam kết giảm phát thải của Việt Nam.

Nói về tiềm năng của thị trường vật liệu xây dựng xanh, ông Nhuận đánh giá Việt Nam có nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú như gỗ, tre, rơm rạ có thể tận dụng để phát triển các loại vật liệu xanh và tái tạo. Các loại vật liệu như gạch từ rơm, tre hay gỗ tự nhiên có thể thay thế các vật liệu xây dựng truyền thống.

Ngoài ra, thị trường quốc tế ngày càng yêu cầu các sản phẩm và công trình đáp ứng tiêu chuẩn môi trường và bền vững. Điều này tạo cơ hội cho các nhà sản xuất và doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các thị trường xuất khẩu với các sản phẩm vật liệu xanh.

Các chuyên gia ngành xây dựng cho biết thêm hiện nay, Việt Nam đang triển khai nhiều chính sách thúc đẩy phát triển công trình xanh và vật liệu xanh. Cụ thể là Chiến lược phát triển vật liệu xanh Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2050; quy hoạch tổng thể quốc gia, chiến lược tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn; Luật Bảo vệ môi trường 2020 cũng đưa ra quy định về việc tái sử dụng chất thải rắn trong xây dựng. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư trong ngành vật liệu xây dựng xanh.

Chi phí cao: rào cản của ngành vật liệu xanh

Dù đã có hành lang pháp lý tương đối đầy đủ nhưng việc tiêu thụ vật liệu xây dựng tái chế còn rất khiêm tốn. Tỷ lệ tro xỉ, thạch cao, bùn đỏ được sử dụng mới đạt khoảng 30-50% trong khi lượng tồn đọng hàng chục triệu tấn. Đây là nội dung được ông Nhuận chia sẻ trong buổi hội thảo khoa học với chủ đề “Quản lý vật liệu, tái chế chất thải và hiện đại hóa nhằm phát triển bền vững trong xây dựng công trình và cơ sở hạ tầng” do Viện đào tạo và nâng cao TPHCM tổ chức vào ngày 8-8.

Theo ông Nhuận, hiện có bốn thách thức trong việc áp dụng vật liệu xanh. Thứ nhất là chi phí đầu tư ban đầu cao. Các vật liệu xanh thường có chi phí sản xuất cao hơn so với các vật liệu truyền thống, đặc biệt là trong giai đoạn đầu áp dụng. Điều này có thể gây khó khăn cho các nhà thầu xây dựng hoặc người tiêu dùng trong việc tiếp cận và sử dụng vật liệu xanh.

Trung bình ngành xi măng Việt Nam sản xuất khoảng 100 triệu tấn/năm, đóng góp đến khoảng 10% tổng lượng CO2 phát thải của quốc gia. Trong khi đó, lượng chất thải có khả năng tái sử dụng như tro bay, xỉ thép, bùn đỏ..., hàng năm lên đến hàng chục triệu tấn nhưng tỷ lệ tái chế vẫn thấp.

Thứ hai là thiếu tiêu chuẩn và quy định cụ thể. Dù Việt Nam đang dần xây dựng các tiêu chuẩn về vật liệu xanh, nhưng hiện tại vẫn còn thiếu các quy định cụ thể về việc đánh giá và quản lý chất lượng của vật liệu này, điều này dẫn đến sự khó khăn trong việc thực hiện và áp dụng trên diện rộng.

Thứ ba là thiếu nhận thức và hiểu biết về lợi ích. Nhiều chủ đầu tư, nhà thầu và người tiêu dùng vẫn chưa nhận thức đầy đủ về các lợi ích dài hạn của vật liệu xanh như giảm tiêu hao năng lượng, cải thiện chất lượng không khí trong nhà hay giảm thiểu tác động đến môi trường

Cuối cùng là thiếu nguồn cung vật liệu xanh trong nước. Nguồn cung vật liệu xanh trong nước còn hạn chế, dẫn đến việc phụ thuộc vào nhập khẩu, gây tăng chi phí và thời gian thi công.

Để giải quyết các vướng mắc này, Tiến sĩ Lê Hữu Thăng, giảng viên Khoa kỹ thuật và quản lý xây dựng, Đại học bang California Northridge tại Mỹ, cho rằng Việt Nam cần tăng cường khuyến khích đầu tư tư nhân thông qua các ưu đãi tài chính.

Ông Thăng cũng nhấn mạnh việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế với Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), cơ quan của Liên hợp quốc về định cư và phát triển đô thị bền vững (UN-Habitat)… để tiếp cận nguồn vốn và công nghệ. Đây là những giải pháp cấp thiết giúp các mô hình xây dựng xanh, bền vững sớm đi vào thực tiễn và góp phần thực hiện cam kết Net Zero của Việt Nam.

Đại diện Phân viện Vật liệu xây dựng miền Nam cũng kiến nghị nước ta cần có thêm nhiều chính sách đổi mới như ban hành quy định về tỷ lệ vật liệu xây dựng tái chế trong các dự án ngân sách nhà nước (đường, cầu, trường học, bệnh viện…). Cùng với đó là thiết lập cơ chế đấu thầu đánh giá vật liệu xây dựng xanh; phân cấp trách nhiệm rõ ràng cho các bên doanh nghiệp - nhà máy - nhà khoa học; cũng như tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực tiêu chuẩn và đánh giá vòng đời.

Minh Thảo

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/vat-lieu-xanh-nguon-tai-nguyen-doi-dao-nhung-thi-truong-i-ach/
Zalo