Văn Miếu tỉnh Vĩnh Phúc - Từ góc nhìn văn hóa và giá trị thời đại

Được khởi công xây dựng từ năm 2012. Đến tháng 01/2017, khi các hạng mục chính đã cơ bản được hoàn thành, Văn miếu tỉnh Vĩnh Văn Miếu tỉnh Vĩnh Phúc được khởi công xây dựng từ năm 2012. Đến tháng 01/2017, khi các hạng mục chính đã cơ bản được hoàn thành, Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc bắt đầu mở của phục vụ du khách, nhân dân tham quan, chiêm bái và nghiên cứu, tìm hiểu.

Toàn cảnh Văn Miếu 2024

Toàn cảnh Văn Miếu 2024

Đồng thời tại Văn miếu đã và đang từng bước triển khai tổ chức, thực hiện các hoạt động văn hóa; tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu và giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống - di sản văn hóa gắn với Văn miếu và lịch sử Nho học nhằm khai thác, phát huy giá trị, công năng sử dụng của một thiết chế văn hóa được coi là trọng điểm của tỉnh.

Lịch sử hình thành của Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay được bắt nguồn từ Văn miếu phủ Tam Đới, có niên đại vào thế kỷ XV đặt tại xã Cao Xá, huyện Bạch Hạc (nay là xã Sao Đại Việt, huyện Vĩnh Tường). Dựa vào các tài liệu, văn bia lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, tại Văn miếu Vĩnh Phúc và thông qua các cuộc hội thảo khoa học chuyên ngành thì có thể đoán định: Văn miếu phủ Tam Đới được ra đời vào khoảng niên hiệu Hồng Đức, thuộc đời vua Lê Thánh Tông (1470 - 1497). Đây là nơi thờ các bậc Tiên thánh, Tiên hiền, tôn vinh Nho học; là biểu tượng cho truyền thống văn hiến, truyền thống hiếu học của người dân trong vùng và còn được xem là hình mẫu tiêu biểu cho một Văn miếu cấp phủ ở Việt Nam thời Lê Trung Hưng.

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay được bắt nguồn từ Văn miếu phủ Tam Đới, có niên đại vào thế kỷ XV đặt tại xã Cao Xá, huyện Bạch Hạc (nay là xã Sao Đại Việt, huyện Vĩnh Tường

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay được bắt nguồn từ Văn miếu phủ Tam Đới, có niên đại vào thế kỷ XV đặt tại xã Cao Xá, huyện Bạch Hạc (nay là xã Sao Đại Việt, huyện Vĩnh Tường

Qua bản dịch của các văn bia cổ cho thấy. Văn miếu phủ Tam Đới xưa đã trải qua hai lần trùng tu lớn. Lần trùng tu thứ nhất vào năm 1667 và lần thứ hai vào năm 1702. Đồng thời cũng đã trải qua hai lần thay đổi tên gọi, theo sự thay đổi, điều chỉnh tên gọi và địa giới hành chính cấp phủ, cấp tỉnh đương thời, cụ thể: Năm 1822 có tên gọi là Văn miếu phủ Vĩnh Tường, đến đầu thế kỷ XX được đổi tên thành Văn miếu tỉnh Vĩnh Yên.

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay là một quần thể kiến trúc được tập hợp bởi nhiều hạng mục công trình, có sự kết hợp hài hòa giữa phong cách truyền thống và hiện đại

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay là một quần thể kiến trúc được tập hợp bởi nhiều hạng mục công trình, có sự kết hợp hài hòa giữa phong cách truyền thống và hiện đại

Đến tháng 6 năm 2012, một công trình mới mang tên Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc được khởi công phục dựng tại phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Trên cơ sở kế thừa nguồn gốc của Văn miếu phủ Tam Đới xưa, kết hợp với việc tham khảo có chọn lọc mô hình kiến trúc của Văn miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội cùng một số Văn miếu cấp tỉnh còn được bảo tồn ở Việt Nam. Đây là công trình văn hóa mang tính chất đặc thù của di tích Nho giáo, với quy mô kiến trúc khá đồ sộ, trên diện tích đất rộng lớn (hơn 4,2 ha) và nằm ở vị trí có địa thế đẹp của tỉnh Vĩnh Phúc.

Về quy mô kiến trúc và cảnh quan

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay là một quần thể kiến trúc được tập hợp bởi nhiều hạng mục công trình, có sự kết hợp hài hòa giữa phong cách truyền thống và hiện đại. Mỗi hạng mục kiến trúc vừa là thành tố của cả quần thể, vừa có ý nghĩa và chức năng riêng; được bố trí theo thứ tự từ ngoài vào trong, theo kiểu đối xứng trên “trục thần đạo” của Văn miếu và được chia làm 3 khu vực, cụ thể như:

- Khu vực thứ nhất - Cổng chính của Văn miếu, gồm có:

+Tứ trụ: Là 4 trụ dựng bằng đá khối, biểu tượng uy nghi của Văn miếu. Trên đỉnh các trụ có đắp hình nghê chầu, phượng múa - hình ảnh quen thuộc tại các công trình kiến trúc lịch sử văn hóa mang phong cách truyền thống. Trên Tứ trụ có đề các câu đối bằng chữ Hán, có ý nghĩa ngợi ca giá trị của Văn miếu và đạo học.

+ Cầu đá: Là 03 cầu nhỏ đặt bên trên một lạch nước (nhân tạo) là lối đi từ Tứ trụ đến Văn miếu môn. Cầu được làm hoàn toàn bằng đá tự nhiên và trang trí hoa văn là lá sen, búp sen và các họa tiết truyền thống để tạo sự mềm mại, tăng tính thẩm mỹ ngay tại khu cổng vào của Văn miếu.

+ Văn miếu môn: Được xây trên nền đá cao, có chiều ngang là 16m, được thiết kế dựa theo hình mẫu của Văn miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội với 3 bộ phận: Chính môn, Tả môn và Hữu môn. Hai cổng Tả môn và Hữu môn có cấu trúc giống nhau, đối xứng qua Chính môn, theo lối kiến trúc “chồng diêm cổ các”, hai tầng tám mái, lợp ngói vảy cá, hai bên cửa vòm là hai khối trụ hình chữ nhật để trơn, không trang trí, tầng 2 được xây trên mặt bằng hình vuông, trổ 3 cửa vòm, với 2 tầng mái lượn cong, trông giống như một vọng lâu. Các cánh cổng của Văn miếu môn đều được làm bằng gỗ lim vững chắc, theo lối “thượng song hạ bản” để dáng vẻ thanh thoát, giảm bớt sự nặng nề.

- Khu vực thứ hai - Khu giữa của Văn miếu, gồm có:

+ Hồ Thiên quang: Được ví như một tấm gương soi, đón và phản chiếu ánh sáng trời. Hồ xây hình vuông, kích thước 20m x 20m, xung quanh có lan can xây bằng đá. Hồ có độ sâu trung bình là 3m, xung quanh hồ được xây bằng gạch cổ, đáy là đất sét mịn, quanh năm trữ nước đầy để thả các loại cá và sen. Vừa tạo cảnh quan có không gian hài hòa, thoáng mát, dịu nhẹ vừa có ý nghĩa về mặt “phong thủy” cho Văn miếu.

+ Nhà bia tiến sĩ: Là hai dãy nhà không có tường bao, đối xứng nhau, qua Hồ Thiên quang. Mỗi nhà bia có 09 gian, kết cấu hoàn toàn bằng gỗ lim, lợp ngói mũi. Đây là nơi đặt 18 tấm bia đá trên lưng rùa, được sắp xếp đối xứng nhau mỗi bên có một hàng gồm 09 bia vinh danh các vị đỗ Đại khoa – tiến sĩ của tỉnh Vĩnh Phúc trải từ thời Lý đến thời Nguyễn. Trong đó: Tiến sĩ Nho học - ngạch Văn có 86 vị, Tiến sĩ ngạch võ có 05 vị.

Các tấm bia được phục chế với hình dáng, kích cỡ như nhau, nhưng hoa văn thể hiện trên mỗi bia tương ứng với mỗi thời kỳ; chữ trên bia được biên soạn song ngữ theo quy định: Mặt trước khắc chữ Hán, mặt sau khắc chữ Quốc ngữ để khách tham quan dễ dàng tiếp cận. Nội dung văn bia do Viện Nghiên cứu Hán Nôm biên soạn, ghi tên tuổi, quê quán, năm sinh, năm mất, năm đỗ khoa trường, chức vụ, công trạng của các vị Tiến sĩ. Bia tiến sĩ được dựng lên mang ý nghĩa tôn vinh những người đỗ đạt, thể hiện mong muốn tên tuổi của các nhà khoa bảng trường tồn mãi với thời gian...

+ Đại Thành môn: Là cổng ngăn cách giữa Hồ Thiên quang và sân hành lễ. Cổng Đại Thành môn gồm 3 gian xây trên nền đá cao, các cửa đều được làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, có hàng cột hiên trước và sau, ở giữa là hàng cột chống nóc. Hai bên cổng Đại thành môn có hai cổng nhỏ, được gọi là cổng Thành Đức và Đạt Tài. Ngụ ý giáo dục đào tạo con người phải vừa có cả tài và đức. Qua Đại thành môn là vào đến khu Nội tự của Văn miếu; nơi đây được ngăn cách với không gian bên ngoài bởi hệ thống tường bao xây bằng đá khối tự nhiên.

- Khu vực Nội tự - Khu thờ của Văn miếu, gồm:

+ Sân hành lễ: Có diện tích gần 3.000m2, với sức chứa khoảng hơn 2.000 người. Đây là nơi tổ chức các hoạt động tế lễ, dâng hương và các sự kiện quan trọng. Hàng năm, tại Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc thường xuyên diễn ra các buổi lễ quan trọng như: Lễ dâng hương trọng thể của đoàn đại biểu là các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh và các hoạt động lễ tế, dâng hương được tổ chức theo định lệ “Xuân Thu nhì kỳ” vào ngày Đinh đầu tiên của tháng trọng Xuân (tức tháng 2 âm lịch) và ngày đinh đầu tiên của tháng trọng Thu (tức tháng 8 âm lịch) nhằm tôn vinh các bậc Tiên thánh, Tiên nho, các vị danh Nho, khoa bảng theo nghi thức truyền thống đã có từ xưa của các Văn miếu. Ngày nay, sân hành lễ còn là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa gắn với Văn miếu như: Trưng bày triển lãm chuyên đề về Nho giáo, giáo dục khoa cử của địa phương; trình diễn, biểu diễn nghệ thuật Thư pháp, Thư họa; cho chữ-xin chữ dịp đầu Xuân và các hoạt động, sự kiện về văn hóa, du lịch, giáo dục…

+ Lầu chuông, gác trống: Lầu chuông, gác trống nằm ở vị trí đối xứng trên trục thần đạo và có cùng trục dọc với nhà tả vu, hữu vu. Có kích thước và quy cách kiến trúc như nhau, mặt bằng 6m x 6m, cao 6,5m, làm bằng gỗ lim, kết cấu giản đơn theo hình thức cổ truyền “chồng diêm cổ các” (hai tầng tám mái), vuông khối 4 mặt.

+ Nhà tả vu, Nhà hữu vu (còn có cách gọi khác là nhà tả mạc, hữu mạc): Hai dãy nhà được bố trí đối xứng nhau, ở hai bên tả - hữu trước nhà Bái đường, cùng hướng ra sân hành lễ. Mỗi dãy nhà có kết cấu 7 gian với công năng vừa là phòng chờ - nơi dừng chân cho du khách, vừa là có thể sử dụng để tổ chức các hoạt động trưng bày, triển lãm, làm phong phú các hoạt động tại Văn miếu.

+ Bái đường và Hậu cung: Đây là nơi thờ tự của Văn miếu, có quy mô bề thế, được thiết kế theo lối kiến trúc cổ truyền, theo thứ tự: Phía trước là nhà Bái đường và phía sau là Hậu cung đều có 7 gian, kết cấu gỗ lim, mái cong lợp ngói mũi hài.

Bái đường: Có đặt ban thờ Công đồng, là nơi để du khách làm lễ trước khi vào hậu cung.

Hậu cung gồm 2 tầng: Tầng 1 được dùng làm phòng trưng bày, nơi đây hiện đang lưu giữ các tư liệu, hiện vật có liên quan đến Nho giáo và lịch sử hình thành, phát triển của Văn miếu. Tầng 2 có đặt 5 ban thờ, là nơi đặt bài vị thờ đức Khổng Tử, thầy giáo Chu Văn An và 86 vị đại khoa ngạch văn của tỉnh.

Bài trí nội thất và hình thức thờ tự tại Văn miếu

Tại vị trí chính giữa của Nhà Bái đường có đặt ban thờ công đồng, có bài vị và ngai thờ chân linh các vị Tiên thánh, Tiên hiền cùng hệ thống đồ thờ gồm: hương án, hoành phi, câu đối, bộ đồ thờ thất sự, đỉnh đồng, đôi rùa, cõng hạc bằng đồng, bộ bát bửu và hai hòm công đức.

Tầng 1 của hậu cung được dùng làm phòng trưng bày. Gian chính giữa là nơi đặt bia đá cổ hình trụ, có bốn mặt khắc chữ Hán, nội dung ghi lại việc trùng tu Văn miếu phủ Tam Đới lần thứ 2 vào năm 1702, đời vua Lê Hy Tông. Các gian còn lại trưng bày sách đồng ghi danh 339 vị đỗ hàng trung khoa của tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ phong kiến và hệ thống tủ trưng bày tư liệu, hiện vật liên quan đến đời sống sinh hoạt, học tập của Thầy đồ, Nho sinh và giáo dục Nho học, khoa cử của tỉnh Vĩnh Phúc.

Tầng 2 của Hậu cung là nơi đặt 5 ban thờ. Hình thức thờ tại Văn miếu Vĩnh Phúc là thờ bài vị, cụ thể: Ban chính giữa đặt bài vị thờ đức Khổng Tử và thầy giáo Chu Văn An và 04 ban còn lại chia đều về hai bên đặt bài vị thờ 86 vị tiến sĩ - đại khoa ngạch văn của tỉnh Vĩnh Phúc từ thời Lý đến thời Nguyễn. Bài trí theo nguyên tắc trình tự thời gian đỗ đạt từ xa tới gần, từ trái sang phải với ban thờ chính ở gian giữa. Đồng thời, tại hai gian đầu hồi có đặt hai cuốn sách đồng cỡ lớn ghi chi tiết thân thế sự nghiệp các vị Tiến sĩ, như: Họ tên, năm sinh, năm mất, quê quán (địa danh cũ và mới), năm đỗ khoa trường, học vị, chức vị, công trạng…

Tổng thể kiến trúc của Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc mang đậm phong cách truyền thống, có giá trị thẩm mỹ cao, trong đó: Về vật dụng trang trí, nội thất sử dụng sản phẩm đồ gỗ, đồ đồng của các cơ sở sản xuất, làng nghề nổi tiếng ở nước ta như: Làng nghề làm trống Đọi Tam - Hà Nam, làng nghề đúc đồng truyền thống Ngũ Xã - Ý Yên - Nam Định... Vật liệu xây dựng ngoại thất được làm bằng đá Thanh Hóa, gạch đá ong, gỗ lim chắc khỏe.

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc vừa hội tụ những giá trị của di sản văn hóa

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc vừa hội tụ những giá trị của di sản văn hóa

Giá trị văn hóa của Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc vừa hội tụ những giá trị của di sản văn hóa đồng thời vừa mang giá trị của một thiết chế văn hóa đa chức năng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của xã hội hiện đại, cụ thể:

- Giá trị di sản văn hóa phi vật thể: Có thể nói, giá trị quan trọng nhất của Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc chính là những giá trị văn hóa phi vật thể. Đó là truyền thống hiếu học, khoa bảng; truyền thống “tôn sư trọng đạo”, “kính thầy, trọng chữ” đã được cộng đồng người dân nơi đây nâng niu, gìn giữ, trao truyền tiếp nối trải qua hàng nghìn năm lịch sử và luôn song hành cùng với lịch sử hình thành và phát triển của nền giáo dục Nho học và khoa cử của nước nhà. Những giá trị ấy được minh chứng cụ thể, đầy sinh động bằng tên tuổi, danh tiếng và những đóng góp, công trạng rất đáng tự hào của các thế hệ những nhà khoa bảng, tiến sĩ của quê hương Vĩnh Phúc đối với đất nước, qua các triều đại phong kiến trong lịch sử. Tiêu biểu có thể kể đến như: Tiến sĩ – Trạng nguyên Phạm Công Bình, người đã khai khoa cho nền khoa cử của Vĩnh Phúc ngay từ những khoa thi đầu tiên ở thời Lý; Tiến sĩ - Trạng nguyên Đào Sư Tích người đỗ đầu cả ba kỳ thi (thi Hương, thi Hội, thi Đình) và là một trong 46 trạng nguyên của nước ta. Tiến sĩ - lưỡng quốc Trạng nguyên Triệu Thái, ông tham dự và đỗ tiến sĩ triều nhà Minh (Trung Quốc), làm quan đến chức hàn lâm học sĩ. Khi biết tin Lê Lợi khởi nghĩa, ông đã lấy lý do xin về quê nhà thăm cha mẹ, rồi ở lại, tiếp tục tham dự thi và đỗ đầu khoa thi Minh Kinh thời vua Lê Thái Tổ và ra làm quan, phò vua giúp nước. Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì, ông đỗ Hoàng giáp đời vua Lê Thế Tông (1606), làm quan đến chức Binh bộ thượng thư, gia Tham tụng, Lại Bộ Thượng thư, Chưởng lục bộ kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, kiêm Hàn lâm viện, tiến chức Thái phó. Người đã có rất nhiều đóng góp quan trọng trong thời Lê - Trịnh…

Chính những giá trị văn hóa phi vật thể về Nho giáo - khoa cử được tích lũy, lắng đọng theo thời gian, đã gióp phần làm nên văn hiến của vùng đất Vĩnh Phúc, nơi “anh hùng góp mặt - khoa bảng đề danh”. Những giá trị đó luôn được các thế hệ người dân Vĩnh Phúc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai coi trọng gìn giữ, trao truyền, tiếp nối, coi đó là niềm tự hào riêng có của cộng đồng mình, quê hương mình. Đó cũng chính là “phần hồn”, làm cho Văn miếu trở nên sống động, hòa nhập với cộng đồng dân cư thông qua những hoạt động văn hóa tại Văn miếu. Gắn kết với cộng đồng dân cư qua yếu tố tâm linh, qua những câu chuyện lịch sử, nhân chứng, vật chứng và qua các hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống gắn với tính chất đặc thù của Văn miếu như: Hoạt động tế lễ, dâng hương, tôn vinh các bậc tiền nhân và các hoạt động xin chữ/cho chữ đầu Xuân, trình diễn nghệ thuật Thư pháp, Thư họa, trưng bày, triển lãm chuyên đề…

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc còn có giá trị là một thiết chế văn hóa đa chức năng. Một địa điểm sinh hoạt văn hóa, giáo dục di sản văn hóa - văn hóa truyền thống, điểm đến hấp dẫn về du lịch văn hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của các tầng lớp người dân

Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc còn có giá trị là một thiết chế văn hóa đa chức năng. Một địa điểm sinh hoạt văn hóa, giáo dục di sản văn hóa - văn hóa truyền thống, điểm đến hấp dẫn về du lịch văn hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của các tầng lớp người dân

Giá trị di sản văn hóa vật thể: Văn miếu hiện nay đang là nơi lưu giữ, trưng bày những hiện vật, cổ vật quý, tiêu biểu như: Bia đá hình trụ bốn mặt được phát hiện và khai quật vào năm 2010 tại trường THPT Trần Phú. Nội dung trên bia được khắc bằng chữ Hán, ghi lại việc trùng tu Văn miếu phủ Tam Đới lần thứ 2 vào năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Chính Hòa thứ 23 - năm 1702, đời vua Lê Hy Tông. Cùng với đó là rất nhiều những tư liệu hiện vật khác như: Nghiên, bút, ống tráp, hòm đựng tư trang, đồ dùng dụng cụ của Thầy đồ và Nho sinh xưa… Đây là những hiện vật, cổ vật hết sức có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học. Là minh chứng khẳng định sự hình thành, phát triển của Văn miếu.

Bên cạnh đó, mỗi công trình kiến trúc khi được xây dựng và được hình thành đều mang trong mình những thông tin, tư liệu về thời đại sản sinh ra nó. Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay cũng vậy. Ngoài việc lưu giữ những thông tin tư liệu, di vật, cổ vật thì các hạng mục kiến trúc của công trình Văn miếu dù là được phục dựng, xây dựng mới. Song, giá trị vật thể của công trình cũng như từng hạng mục kiến trúc, từng hiện vật đã được tái tạo, phục dựng… sẽ dần nằm trong nếp gấp của thời gian, sẽ luôn hiện hữu dưới hình thức là di sản văn hóa vật thể, trường tồn cùng với quá trình phát triển của quê hương đất nước.

Ngoài các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được coi là giá trị cốt lõi, gắn kết để tạo nên sự sự hòa hợp, sống động giữa “phần xác” và “phần hồn” của Văn miếu như đã nêu. Trong xu thế, tình hình mới và nhu cầu của đời sống xã hội đang đặt ra. Với diện mạo và quy mô rộng lớn, bề thế và uy nghi như hiện nay. Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc còn có giá trị là một thiết chế văn hóa đa chức năng. Một địa điểm sinh hoạt văn hóa, giáo dục di sản văn hóa - văn hóa truyền thống, điểm đến hấp dẫn về du lịch văn hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của các tầng lớp người dân. Từ góc tiếp cận này, có thể thấy Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc còn có giá trị là “nguồn lực mềm”, “nguồn lực nội sinh” trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Có thể khẳng định rằng: Trong xu thế chung của thời đại, khi các giá trị văn hóa đã và đang được coi là “nguồn lực nội sinh”, “nguồn lực mềm” để phát triển các ngành “công nghiệp văn hóa” của địa phương nói riêng và đất nước nói chung. Thì một thiết chế văn hóa hội tụ đầy đủ các giá trị cả về văn hóa, lịch sử và khoa học cùng với quy mô, diện mạo hoành tráng, uy nghi như Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc khi được phát huy giá trị và quản lý, khai thác hiệu quả chắc chắn sẽ có sự đóng góp đáng kể vào sự phát triển ngành du lịch văn hóa của địa phương.

Lê Hải - Bảo tàng Vĩnh Phúc

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/van-mieu-tinh-vinh-phuc-tu-goc-nhin-van-hoa-va-gia-tri-thoi-dai-a28984.html
Zalo