Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi
Tám mươi năm kể từ mùa thu lịch sử 1945, nguồn cảm hứng và sức mạnh tinh thần từ Cách mạng Tháng Tám vẫn được hun đúc qua từng thời kỳ phát triển của đất nước. Sự kiện ấy không chỉ mở ra một kỷ nguyên độc lập dân tộc, mà còn khai mở một kỷ nguyên văn hóa mới - nơi Nhân dân Việt Nam được làm chủ đời sống tinh thần, được sáng tạo và thụ hưởng văn hóa như một quyền cơ bản. Trong kỷ nguyên mới, văn hóa tiếp tục khẳng định vai trò là động lực phát triển, là 'sức mạnh mềm' của quốc gia.

Văn hóa là sức mạnh mềm, là “năng lượng gốc” vô tận của dân tộc Việt Nam. Ảnh: N.Lộc
Kỷ nguyên mới của văn hóa Việt Nam
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) - văn kiện mang tầm cương lĩnh đầu tiên về con đường phát triển văn hóa cách mạng - đã được xác lập như “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động văn hóa trong kháng chiến và kiến quốc.
Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng thay đổi tận gốc cách nhìn về con người, đưa người dân từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân đất nước và là chủ thể sáng tạo lịch sử, văn hóa và sự phát triển. Khi đất nước giành được độc lập, điều đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh không phải là quyền lực, mà là “quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do” - tức là quyền làm người trọn vẹn cả về thể xác lẫn tinh thần, về vật chất lẫn văn hóa. Người khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” - không phải là khẩu hiệu nhất thời, mà là một triết lý phát triển bền vững từ gốc rễ. Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, muốn xây dựng một đất nước độc lập thì phải bắt đầu từ nền văn hóa độc lập, dân chủ, tiến bộ và nhân văn.
Ngay sau khi giành chính quyền năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng các phong trào văn hóa lớn như “diệt giặc dốt”, “xây dựng đời sống mới”, khẳng định tầm quan trọng của văn hóa trong kiến thiết đất nước. Tư tưởng đó được cụ thể hóa xuyên suốt trong mọi cương lĩnh, nghị quyết của Đảng - từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, đến Cương lĩnh năm 1991 và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (2014). Qua mỗi giai đoạn, Đảng ta đều xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực nội sinh cho sự phát triển đất nước.
Đảng ta luôn đặt trọng tâm xây dựng “Văn hóa trong Đảng”, văn hóa trong hệ thống chính trị; đề cao văn hóa pháp quyền, văn hóa công vụ, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa trong kinh doanh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, ủng hộ của Nhân dân; với bản lĩnh, tài năng và lòng yêu nghề của đội ngũ những người làm văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch; chúng ta sẽ đưa văn hóa Việt Nam phát triển xứng tầm, để đất nước ta mạnh giàu, để dân tộc ta trường tồn, để mỗi người Việt Nam hạnh phúc, tự tin hòa nhập và tỏa sáng.
Tổng Bí thư Tô Lâm
Có thể nói, từ mùa thu năm 1945, một kỷ nguyên mới của văn hóa Việt Nam đã mở ra - nơi Nhân dân trở thành chủ thể sáng tạo. Trong khói lửa kháng chiến, văn hóa hiện diện như một mặt trận đặc biệt - mặt trận của tâm hồn. Những câu hát dọc Trường Sơn, vở tuồng giữa rừng sâu, bài thơ trên báo tường chiến sĩ hay điệu dân ca cải biên qua loa phát thanh đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần, góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong suốt hành trình giành và giữ nước, văn hóa luôn dung hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại. Những nghệ sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ không chỉ là người sáng tác mà còn là người truyền lửa, giữ lửa - làm nên một nền văn hóa cách mạng đậm đà bản sắc dân tộc, thấm nhuần tinh thần thời đại.
Nguồn lực nội sinh đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới
Bước vào thời kỳ hòa bình, đặc biệt sau Đổi mới năm 1986 - đánh dấu bằng Đại hội VI của Đảng - văn hóa chuyển sang một chương mới: chương của phát triển toàn diện con người Việt Nam. Những phong trào như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Người tốt, việc tốt”, “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã tạo nên một nền văn hóa rộng khắp, từ làng quê đến phố thị, từ biên giới đến hải đảo.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã khai thác văn hóa như một trụ cột quan trọng trong chiến lược ngoại giao hiện đại. Ngoại giao văn hóa trở thành “cầu nối mềm” để đưa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Việt Nam ngày càng chủ động hơn trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia bằng văn hóa. Những biểu tượng văn hóa - từ kiến trúc, ngôn ngữ, phong cách sống, lễ hội truyền thống đến tinh thần hiếu khách, sáng tạo - đang dần trở thành tài sản vô hình có giá trị chiến lược trong hội nhập quốc tế. Nhiều địa phương đã biết khai thác sức mạnh mềm này để tạo dấu ấn riêng: Từ Hà Nội - thành phố sáng tạo UNESCO, đến Huế - thành phố di sản, hay Hội An, Đà Lạt, Sa Pa… trở thành điểm đến mang tính biểu tượng về bản sắc. Văn hóa không chỉ giới hạn ở đời sống tinh thần, mà còn đóng góp những giá trị kinh tế rõ nét trong ngành công nghiệp văn hóa.
Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam cũng được xác định là một thành tố then chốt trong chiến lược phát triển quốc gia. Đến nay, một hệ thống thể chế văn hóa ngày càng hoàn chỉnh đã được xây dựng; cùng với các chính sách ưu đãi đầu tư cho văn hóa, cơ chế đặt hàng sáng tạo nghệ thuật, chủ trương xã hội hóa lĩnh vực văn hóa… tất cả đang tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Bước vào kỷ nguyên số, với sự bùng nổ của công nghệ, trí tuệ nhân tạo, truyền thông đa phương tiện và toàn cầu hóa sâu rộng, văn hóa Việt Nam đứng trước cả cơ hội lẫn thách thức chưa từng có. Một mặt, văn hóa có cơ hội lan tỏa rộng hơn, nhanh hơn, vượt qua mọi biên giới địa lý nhờ sức mạnh của nền kinh tế số, các nền tảng trực tuyến. Mặt khác, văn hóa cũng phải đối mặt với nguy cơ bị đồng hóa, bị “nhấn chìm” trong dòng chảy toàn cầu, hoặc bị biến dạng bởi những giá trị lệch chuẩn, thiếu lành mạnh. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã xác định rõ: Phát triển văn hóa không chỉ là giữ gìn di sản hay tôn vinh truyền thống, mà phải nâng tầm văn hóa thành một trụ cột chiến lược, song hành cùng kinh tế và chính trị trong mọi định hướng phát triển đất nước.
Tám mươi năm kể từ ngày độc lập, văn hóa Việt Nam đã chứng minh rằng: Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là “sức mạnh mềm” giúp đất nước vươn lên. Từ một dân tộc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” giành tự do, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hội nhập đầy bản lĩnh, với di sản phong phú, sáng tạo không ngừng và khát vọng vươn tới tương lai. Trong vòng xoáy hội nhập quốc tế và cách mạng công nghệ, tinh thần Cách mạng tháng Tám 1945 càng cần được gìn giữ như ngọn lửa dẫn đường cho dân tộc bước vào thời đại mới. Với ngành văn hóa, như lời Tổng Bí thư Tô Lâm khi kế thừa quan điểm của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Văn hóa phải đi trước một bước, soi đường, dẫn dắt, bồi đắp bản lĩnh, củng cố niềm tin, hình thành năng lực mềm quốc gia./.