Vai trò chủ thể tác giả trong văn du ký Bắc Ninh nửa đầu thế kỷ xx

Trong dòng văn du ký về Bắc Ninh giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, vai trò chủ thể tác giả thường được nhấn mạnh ngay từ nhan đề với các cách định danh trực diện, kiểu như 'Tôi đi xem hội Lim', hoặc tạo ấn tượng với chủ thể - chủ ngữ ẩn, kiểu như 'Lời cảm cựu về mấy ngày chơi Bắc Ninh', 'Thăm lăng Sĩ Vương', 'Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng Giang', 'Phiếm du kỷ niệm một cuộc đi chơi Phủ Lạng Thương', 'Chơi núi Lạn Kha', 'Theo vết nhà Mạc qua nơi non cao, rừng thẳm'…

Đơn cử góc quan sát, cảm nhận, trải nghiệm và diễn ngôn của một chủ thể tác giả “tôi” trong bài "Tôi đi xem hội Lim của Văn Tứ": “Tôi lẩn vào đám đông người rồi lần bước trèo lên một gò đất trọc”, “Tôi lẻn vào cố nghe một cặp gái trai đang hát”, “Qua chợ, lần theo lối cũ, tôi định trở ra về”, “tôi thấy một ông Thú y đang nói chuyện với quan Phủ”, “Tôi quay đầu lại, nhìn một đám cãi nhau ở ngay ngoài đường nhựa” (Hà thành ngọ báo, 1933)…

 Võ sư Trịnh Như Quân biểu diễn võ sáo tại Đền Thề thuộc Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế. Ảnh: PV.

Võ sư Trịnh Như Quân biểu diễn võ sáo tại Đền Thề thuộc Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế. Ảnh: PV.

Thông qua cách nói, cách thể hiện, bộc lộ chủ thể cái “tôi” tác giả mà có thể đoán định, nhận biết được tâm thế, trình độ, tuổi tác, nghề nghiệp, thái độ, tính cách, vai trò người viết trong cuộc du ngoạn. Học giả Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục trong du ký Lời cảm cựu về mấy ngày chơi Bắc Ninh đặt cược vào điểm nhìn cái “tôi” trong việc hồi cố những kỷ niệm thời ấu thơ với việc lược thuật những điều tai nghe mắt thấy hiện thời và thêm những lời bình luận ngoại đề. Khởi đầu là nhận thức về vai trò chủ thể: “Phàm đi chơi, chỗ nào là chỗ chẳng giang sơn ấy, thành quách ấy, nhân vật ấy, phong cảnh ấy, duy về sự cảm tưởng, thì mỗi người mỗi khác, mà trong một người khi đi chơi cũng mỗi chỗ mỗi khác”…; đến những trang hồi tưởng thắm thiết tình quê: “Duy trên kia tôi đã nói phàm đi chơi, sự cảm tưởng mỗi người mỗi khác, mà trong một người khi đi chơi, cũng mỗi chỗ mỗi khác. Tỉnh Bắc Ninh, phủ Từ Sơn, huyện Đông Anh, tổng Xuân Canh, làng Uy Nỗ Thượng, thôn Cầu, họ hàng tôi ở đó, tổ tiên phần mộ tôi ở đó. Hạ Dương, Phù Ninh, Đình Bảng chi gian, tôi thuở thiếu thời đi học đi hành, đi câu đi chơi ở đó. Tòa Khổng Miếu trên núi Phúc Đức (tức núi Nác) tôi thuở thiếu thời lên cung chiêm, lên viết văn khảo hạch ở đó. Bức thành cổ Phong Khê (tức Loa Thành), cánh rừng già Cổ Pháp (tức rừng Báng), tôi thuở thiếu thời tìm hoa hái thuốc ở đó. Sông Thiên Đức (tức sông Đuống), sông Nguyệt Đức (tức sông Cầu), tôi thuở thiếu thời chơi trăng ở đó. Núi Nguyệt Hằng (tức núi Chè), núi Lãm Sơn (tức núi Dạm), tôi thuở thiếu thời chơi mây ở đó. Phố Tiền An, phố Vệ An, tôi thuở thiếu thời đứng mằng cả với cô Tỵ, cô Thìn mua bút mua giấy, hỏi giá cùng chị Hai, chị Tám mua nến mua áo tơi, trả tiền cho chú Cam, chú Quýt mua bánh giầy, bánh giò ở đó. Cửa thành Bắc Ninh, cửa tiền cửa hậu, cửa tả cửa hữu, trên lầu dưới cổng, trong lũy ngoài hào, tôi thuở thiếu thời xem quan An Nam trẩy lên núi Nác, trống giong cờ mở, gươm vàng áo nậu ở đó. Làng Niềm, xóm Bình Khang, tôi thuở thiếu thời theo bậc phụ chấp, bậc huynh trưởng, các bậc nho nhã phong lưu, vào nghe những giọng Xích Bích, Tỳ Bà ở đó. Trạm cầu Lim, phố chùa Dặn, tôi thuở thiếu thời cùng với bạn bè mượn thú tích xuân, nếm bánh thuốc lào, ngâm câu vấn nguyệt, ăn lá lộc hươu ở đó”…; cho đến những quan sát, ngẫm ngợi cảnh vật thành Bắc Ninh đương thời so với quá vãng: “Những bạn thuở thiếu thời, hỏi ra thì hoặc tan xương, hoặc điêu linh hồ hết. Vì thuở mình thiếu thời, thì những ông bạn ấy tuy là bạn, nhưng kỳ thực là tiền bối… Cho nên mới độ ngót ba mươi năm nay mà cái quang cảnh đồng điệu đồng du đã khác đi nhiều lắm. Có chăng chỉ một bức cổ thành ở đây là một vị cố nhân của mình thuở thiếu thời đấy thôi”…; rồi khi đến thăm Khổng Miếu núi Phú Đức (Phúc Sơn), nơi lưu danh 677 vị người Kinh Bắc đỗ đại khoa và miên man suy tưởng: “Trên núi có một cây cổ thụ, kể cũng là cái vật đã lâu ngày; gốc với rễ ra hình già cỗi, mà cành với lá vẫn ra dáng trẻ trung. Ký giả bồi hồi ở dưới gốc cây ít lâu, nhân nghĩ đến thuở còn trái đào theo bậc huynh trưởng lên đây viết văn khảo hạch cách nay đã ngoại ba mươi năm - “Tam thập niên hồi thủ sự hà như”. Nay mái đầu đã có một vài cái tóc hơi điểm bạc mà cái cây thì hình như vẫn thế, không thấy khác đi là mấy” (Nam phong Tạp chí, 1925)... Vậy là tác giả có tường thuật cảnh vật và cuộc sống, có độc thoại với chính mình, có đối thoại với thời gian, với tiền nhân, với cổ kim và muôn kiếp chúng sinh.

Từ nhiều góc độ khác nhau, chủ thể tác giả trong dòng văn du ký viết về Bắc Ninh giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đã thể hiện sắc nét, sinh động vai trò của mình. Điều này có phần phụ thuộc vào tài năng tác giả cũng như mối quan hệ cá nhân tác giả với xứ Bắc và hiện thực vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên, cuộc sống và tình người nơi đây.

Sự thể hiện vai trò chủ thể tác giả trong văn chương luôn tạo nên cái riêng, cá tính sáng tạo, phong cách và giọng điệu riêng. Chủ thể tác giả trong văn du ký cũng qui định những diễn ngôn khác nhau để định hình các tiểu loại thể tài du ngoạn, khảo cứu lịch sử, văn hóa, tâm linh, sinh thái… Chính vì thế mà trong dòng văn du ký viết về Bắc Ninh cũng có giọng trầm hùng, hoài cảm lịch sử, có giọng trữ tình yêu nhớ cố hương, có giọng tươi vui trong chuyến du hành và có giọng hài hước, châm biếm trước nghịch cảnh. Ví như, học giả Đồ Nam trong du ký "Thăm tìm dấu cũ - Chùa Bút Tháp, lăng Kinh Dương Vương" lại thật lòng hài hước thuật chuyện: “Chúng tôi ngỏ ý muốn vào thăm đình rồi ra thăm lăng, làng tưởng chúng tôi là bọn quan chức gì, bèn kêu là “Các quan” và cử người đưa đi một cách kính cẩn lắm. Tôi nghĩ thầm: Bọn mình vẫn ghét cái thói đội lốt hùm, nhưng nếu bây giờ mình bảo thực họ rằng chúng tôi là học trò, vì mến cổ tích mà đi khảo sát, thì sợ họ sẽ không cần mà bỏ mình không đưa đi nữa, lại càng lỡ việc ra. Thôi mặc kệ họ, cái đó là tự họ chứ không tự mình. Thế nhưng cũng vẫn tự lấy làm xấu hổ, rồi cũng nhận mình là bọn đi phỏng cổ mà thôi” (Nam Phong tạp chí, 1934); lại như cũng một ký giả Việt Sinh (Thạch Lam) mà trong du ký "Bóng người Yên Thế: Từ Hố Chuối đến Đồn Gò - Giang sơn Đề Thám" thì đan xen tiếng nói bi hùng, khâm phục, cảm thương: “Trong vùng yên tĩnh ấy, chỉ thấy từng quãng xa, những đồn binh lính đóng trong những cái lô cốt trơ trọi trên đỉnh đồi. Chung quanh, người dân lại yên lặng cúi mình trên những thửa ruộng màu, bình tĩnh thong dong làm công việc ngoài đồng. Nhưng không biết, trong cái không khí yên hòa ấy - những người trước kia đã từng cùng Đề Thám xông pha nguy hiểm, những họ hàng thân thích đã vì ông ta mà phải trốn tránh gian nan, không biết những người ấy bây giờ thế nào? Tôi lên Yên Thế, chủ ý chỉ cốt biết rõ cái cảnh sinh hoạt bây giờ của những người ấy, những người mà trong lòng mang một cái quá khứ nặng nề, mà cái kỷ niệm một thời Đề Thám còn rõ rệt như xưa” (Ngày nay, 1935), nhưng ở du ký "Trên đồi Lim" thì lại đan xen, gia tăng tiếng nói hài hước, châm biếm, chỉ trích, phê phán mặt trái nơi lễ hội theo đúng phong cách bản báo, kiểu như: “rải rác đã thấy một vài đám người đi xem hội, tỉnh có, quê có, lên đấy rồi ngồi đưa mắt, nhìn nhau”, “Hàng nước và quà bánh bày la liệt ở chân đồi mà người bán hàng phần nhiều là những cô xinh đáo để, ăn nói có duyên tệ. Nhưng mấy bàn xóc đĩa và thò lò vẫn được đông người xem hơn cả. Hội ở đâu chẳng thế”, “Rồi cứ thế, lượn đi lượn lại trước các dãy hàng trong chợ, thấy cô hàng nào xinh xinh thì xúm xít lại hỏi ban, những là cô em ở về đâu, năm nay bao nhiêu tuổi, có chồng chưa hay chưa có, mà nếu chưa có thì về với anh, em ạ! Chỉ hỏi vẩn vơ có thế, chứ hàng của cô, họ cũng chẳng mua giúp được xu nào” (Phong hóa, 1933); hoặc như ký giả Nguyễn Đình Miên sau hai ngày du ngoạn trong "Phiếm du kỷ niệm một cuộc đi chơi Phủ Lạng Thương" đã thức nhận trong lời kết: “Rồi sáng hôm sau, từ giã thiếu nữ, chúng tôi chạy lên đồi thông Liễu Đê đăm đăm nhìn về Hà Nội. Trong phút linh thiêng ấy, chúng tôi hình như đã giác ngộ rằng tiếng gọi của thị thành bao giờ cũng bỉ ổi, ô uế cạnh tiếng nói huyền diệu của bóng cá hoa thơm, núi cao đồng rộng, vẻ đẹp trong sạch không mất tiền mua” (Sông Hương, 1936)... Bao nhiêu tác giả, bao nhiêu cảnh ngộ dọc đường du ngoạn, bao nhiêu trang du ký là bấy nhiêu tâm tình, cách cảm nhận thời cuộc và lối viết khác nhau.

Từ nhiều góc độ khác nhau, chủ thể tác giả trong dòng văn du ký viết về Bắc Ninh giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đã thể hiện sắc nét, sinh động vai trò của mình. Điều này có phần phụ thuộc vào tài năng tác giả nhưng cũng phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ cá nhân tác giả với xứ Bắc và chính hiện thực vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên, cuộc sống và tình người xứ Bắc.

La Nguyễn Hữu Sơn

Nguồn Bắc Ninh: https://baobacninhtv.vn/vai-tro-chu-the-tac-gia-trong-van-du-ky-bac-ninh-nua-dau-the-ky-xx-postid433631.bbg