Tuyên Quang - điểm sáng Chương trình 809: Hướng tới định hướng lâm nghiệp hiện đại

Với vai trò nòng cốt trong thực hiện Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững (Chương trình 809) giai đoạn 2021-2025, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực từ bảo vệ rừng, phục hồi sinh thái đến thúc đẩy sinh kế xanh, góp phần nâng cao chất lượng rừng và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Phát triển rừng gỗ lớn, nâng cao giá trị kinh tế lâm nghiệp và bảo vệ môi trường.

Phát triển rừng gỗ lớn, nâng cao giá trị kinh tế lâm nghiệp và bảo vệ môi trường.

Giữa trung tâm vùng núi phía bắc, Tuyên Quang được xem là một trong những địa phương có bước chuyển mạnh mẽ về phát triển lâm nghiệp bền vững trong giai đoạn 2021-2025. Với diện tích rừng lớn, nhiều vùng sinh thái đặc thù và đội ngũ kiểm lâm bám địa bàn sâu sát, tỉnh đã tạo ra những mô hình, cách làm hiệu quả. Đây cũng là một trong những cơ sở quan trọng để ngành lâm nghiệp cả nước đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững 809 và đề xuất những chính sách phù hợp cho giai đoạn tiếp theo.

Nỗ lực vượt địa hình chia cắt

Chia sẻ về những thách thức của địa phương khi thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng, ông Đào Duy Tuấn, Chi Cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Tuyên Quang cho biết: Tuyên Quang có nhiều vùng sinh thái khác biệt, phía tây bị sa mạc hóa, nắng nóng, hanh khô; phía bắc là cao nguyên núi đá trùng điệp khó phát triển rừng trồng; phía nam có nhiều thuận lợi hơn. Địa bàn bị chia cắt mạnh, đồng bào vùng sâu còn khó khăn, mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng hiện nay chỉ đáp ứng được khoảng một phần ba công lao động.

Ông Tuấn chia sẻ thêm: Các văn bản hướng dẫn đôi lúc chưa thống nhất, vốn Trung ương cấp về chậm khiến nhiều năm đầu mùa khô, tỉnh không thể ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng kịp thời cho người dân. Năng lực cán bộ cấp xã sau mô hình chính quyền 2 cấp cũng là điểm nghẽn, buộc lực lượng kiểm lâm phải trực tiếp hỗ trợ chuyên môn.

Dù vậy, Tuyên Quang đã linh hoạt vượt khó, mở rộng diện tích rừng có chứng chỉ FSC lên 90.000ha và đặt mục tiêu đạt 120.000ha trong giai đoạn tới; đồng thời triển khai Đề án xây dựng tỉnh trở thành khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao và trung tâm chế biến gỗ vùng trung du miền núi phía bắc.

Ông Đào Duy Tuấn nhấn mạnh, ba “mũi nhọn” chiến lược giai đoạn 2026-2030: Phát triển rừng gỗ lớn, hội nhập sâu thị trường; Huy động 6.000 tỷ đồng xây dựng hệ thống hạ tầng lâm nghiệp, nhất là đường lâm nghiệp vùng nguyên liệu; Phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng và du lịch sinh thái, coi đây là nguồn lực mới tạo đột phá cho kinh tế địa phương.

Thể chế, chính sách và yêu cầu mới trong phát triển lâm nghiệp hiện đại

 Ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Nhìn rộng ra toàn ngành, ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng: Sau 5 năm thực hiện Chương trình 809, nhiều vấn đề về cơ chế chính sách bộc lộ rõ: “Chưa thống nhất, chưa đồng bộ giữa các cơ quan chủ quản; mức hỗ trợ sau điều chỉnh vẫn chưa theo kịp biến động thực tiễn; việc huy động đầu tư tư nhân ở vùng sâu vùng xa rất nan giải”.

Ông Lượng nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải điều chỉnh, nâng mức khoán bảo vệ rừng: “Chúng tôi đã đề xuất nâng thêm mức khoán, nhưng điều đó cần sự đồng thuận của Chính phủ, Quốc hội và các bộ ngành”.

Theo ông, ngành lâm nghiệp Việt Nam đang đối mặt với các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng khắt khe như Đạo luật chống phá rừng EU (EUDR) hay yêu cầu truy xuất nguồn gốc của Hiệp định VPA/FLEGT. Điều này đòi hỏi công tác kiểm kê, lập bản đồ ranh giới rừng, xây dựng cơ sở dữ liệu và ứng dụng công nghệ giám sát phải được tăng tốc.

Về định hướng phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, ông Lượng cho rằng phải tăng giá trị đa dụng hệ sinh thái rừng, không chỉ gỗ và lâm sản ngoài gỗ mà cả dịch vụ môi trường rừng, dịch vụ hấp thụ lưu giữ carbon, du lịch sinh thái, dược liệu dưới tán rừng. Đây là “không gian phát triển mới” giúp nâng giá trị ngành.

Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng thị trường, tránh lệ thuộc duy nhất vào thị trường truyền thống; chủ động tham gia các cơ chế tài chính quốc tế để huy động nguồn lực cho bảo vệ rừng.

Định hướng chiến lược cho giai đoạn mới 2026-2030

Giai đoạn tới, ông Phạm Hồng Lượng cho biết: Lâm nghiệp cần đẩy mạnh chuyển đổi số trên ba trụ cột: Ứng dụng công nghệ trong phát triển giống cây chất lượng cao; ứng dụng công nghệ trong giám sát rừng, phòng cháy chữa cháy, theo dõi đa dạng sinh học từ flycam, ảnh viễn thám đến các nền tảng theo dõi thông minh; ứng dụng công nghệ trong ra quyết định, thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu ngành thống nhất, phục vụ chiến lược, quy hoạch, dự án.

Ở góc độ địa phương, ông Đào Duy Tuấn cho biết áp lực của kiểm lâm ngày càng tăng trong bối cảnh biên chế giảm, diện tích phải quản lý lớn: “Chúng tôi xác định nâng cao năng lực cán bộ kiểm lâm là mệnh lệnh chiến lược”, Tuyên Quang sẽ triển khai hai nhóm giải pháp lớn: Đào tạo chuyên sâu về kiểm tra, truy xuất nguồn gốc, quản lý dịch vụ môi trường rừng, kiến thức văn hóa, tri thức bản địa của 22 dân tộc. Đào tạo ứng dụng công nghệ cao, gồm kỹ năng sử dụng thiết bị bay không người lái, khai thác cơ sở dữ liệu, cảnh báo cháy rừng bằng viễn thám.

Với vai trò cơ quan tham mưu Trung ương, ông Phạm Hồng Lượng cho biết, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm sẽ tập trung vào 4 nhóm nhiệm vụ then chốt: Hoàn thiện thể chế, chính sách, trong đó có sửa đổi Luật Lâm nghiệp và hệ thống nghị định, thông tư; cập nhật quy định liên quan thị trường carbon, EUDR, và yêu cầu truy xuất nguồn gốc. Đầu tư phát triển hạ tầng, phù hợp điều kiện thực tiễn. Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số. Huy động sự vào cuộc của hệ thống chính trị và cộng đồng, nâng cao nhận thức, năng lực chủ rừng, mở rộng hợp tác quốc tế. “Nếu giải quyết đồng bộ thể chế, hạ tầng, công nghệ, con người, ngành lâm nghiệp sẽ tạo được bước đột phá mới”, ông Lượng nhấn mạnh.

Những nỗ lực vượt qua khó khăn và những thành quả sau 5 năm triển khai Chương trình 809 là cơ sở quan trọng để ngành xây dựng kế hoạch giai đoạn 2026-2030 theo hướng hiện đại, đa giá trị, gắn với kinh tế xanh và Mục tiêu quốc gia giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

THU HÀ

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/tuyen-quang-diem-sang-chuong-trinh-809-huong-toi-dinh-huong-lam-nghiep-hien-dai-post925369.html