Tượng nhà mồ - linh hồn văn hóa các dân tộc Tây Nguyên

Giữa đại ngàn Tây Nguyên, nơi gió đại ngàn hòa cùng tiếng cồng chiêng, còn một không gian văn hóa độc đáo, vừa hùng tráng, vừa huyền bí, đó là tượng nhà mồ. Những khối gỗ mộc mạc, dưới bàn tay tài hoa của người dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Ba Na... bỗng hóa thành những hình tượng sống động qua các hình tượng như: người khóc, người ôm mặt, đôi trai gái tình tự, người cưỡi voi, chim muông, thú rừng... Tất cả không chỉ để trang trí, mà là một 'ngôn ngữ bằng gỗ', kể lại triết lý giữa sự sống và cái chết, giữa vui và buồn, yêu và ghét của cư dân Tây Nguyên.

Đồng bào Gia Rai, tỉnh Gia Lai dùng các loại gỗ tạp, dễ trồng như gỗ cây gạo (pơ lang) để đẽo tượng. Ảnh: Việt Bắc

Đồng bào Gia Rai, tỉnh Gia Lai dùng các loại gỗ tạp, dễ trồng như gỗ cây gạo (pơ lang) để đẽo tượng. Ảnh: Việt Bắc

Hành trình hình thành tượng nhà mồ

Nói đến tượng nhà mồ, phải bắt đầu từ quan niệm về cái chết của đồng bào Tây Nguyên. Với họ, cái chết không phải là dấu chấm hết, mà là một hành trình sang thế giới khác, đó là thế giới của tổ tiên, của thần linh. Nhà mồ chính là “ngôi nhà cuối cùng” của người đã khuất, nơi tiễn đưa linh hồn về với cội nguồn.

Để ngôi nhà mồ trở nên ấm cúng, gần gũi, người ta không chỉ dựng nên kiến trúc bằng gỗ, tre, nứa, mà còn tạc tượng để xung quanh thêm sống động. Mỗi bức tượng như một người bạn, một lời nhắn gửi của người sống đến kẻ đã khuất. Nghệ nhân tạc tượng Ksor Krôh, làng Mrông Ngó 1, xã Ia Phí, tỉnh Gia Lai cho biết, các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Xơ Đăng... ở Tây Nguyên xem tượng nhà mồ là “linh vật” gắn liền với lễ bỏ mả, một trong những lễ hội lớn nhất của bà con xưa kia. Không ai biết việc tạc tượng nhà mồ đã có từ bao giờ, chỉ biết mỗi khi làm lễ bỏ mả là phải tạc tượng, dựng quanh ngôi mộ trước khi diễn ra các nghi lễ khác.

Tượng nhà mồ xuất hiện gắn liền với lễ bỏ mả, một nghi lễ tiễn đưa quan trọng nhất trong vòng đời của người Tây Nguyên. Sau thời gian để tang, người thân tổ chức lễ bỏ mả để linh hồn người chết được “giải thoát”, không còn vương vấn trần gian. Dịp đó, tượng nhà mồ được dựng lên như một phần không thể thiếu. Chúng vừa là “người canh giữ”, vừa là “người kể chuyện”, biến khu mộ thành một không gian nghệ thuật độc đáo giữa núi rừng. “Nhà mồ không chỉ cho người chết, mà còn cho người sống. Ta làm tượng để nhớ rằng đời người vui buồn có đủ, chết đi cũng phải có bạn đồng hành” - ông Ksor Krôh nói thêm.

Tượng nhà mồ là một pho sử thi bằng gỗ, khắc họa đầy đủ những cung bậc cảm xúc và sinh hoạt đời thường của cư dân Tây Nguyên. Ở đó có nỗi buồn tiễn biệt, có khát vọng yêu đương, có cả sự hài hước, hồn nhiên của một tâm hồn nghệ sĩ. Từ những khúc gỗ vô tri, vô giác, các nghệ nhân đã tạo thành các loại hình dáng từ những con vật như: khỉ, đại bàng, chim công... đến hình tượng con người như: mẹ cõng con, ông già ngồi chống cằm, chàng trai múa trống...; thậm chí, họ có thể tạc hình liên tưởng đến cuộc sống của người đã khuất trải qua.

Những giá trị độc đáo và phong phú của tượng nhà mồ

Những giá trị độc đáo và phong phú của tượng nhà mồ không thể chỉ nhìn ở bề ngoài như một vật trang trí đơn thuần. Ẩn trong từng khối gỗ là cả một hệ thống biểu tượng phản ánh thế giới quan và nhân sinh quan của cư dân Tây Nguyên. Người thợ tạc tượng không theo khuôn mẫu, họ tạc bằng trí nhớ, bằng cảm xúc, bằng rung động trực tiếp trước đời sống. Chính vì thế, hình tượng trong tượng nhà mồ vô cùng đa dạng: từ cảnh sinh hoạt hằng ngày cho đến những biểu tượng siêu hình.

Tượng phụ nữ hay được người Xơ Đăng khắc họa vì cho rằng, trong cuộc sống, phụ nữ khổ hơn đàn ông. Ảnh: Việt Bắc

Tượng phụ nữ hay được người Xơ Đăng khắc họa vì cho rằng, trong cuộc sống, phụ nữ khổ hơn đàn ông. Ảnh: Việt Bắc

Ở những bức khắc họa hình “Tượng khóc”, với dáng người ngồi ôm mặt, gục đầu, đôi mắt vô hình như ngấn lệ là biểu trưng cho nỗi buồn ly biệt. Già Y Nguyên, người Xơ Đăng ở tỉnh Quảng Ngãi bộc bạch: “Khi có người thân mất, ta nhớ lắm. Tạc tượng người khóc là để nói nỗi nhớ ấy, để người chết biết người sống vẫn thương mình”. Đối lập với nỗi buồn ấy là những bức tượng đôi nam nữ âu yếm, trao nhau vòng tay, phản ánh khát vọng yêu thương và sự sinh sôi nảy nở, hay hình ảnh người đàn bà mang thai nhấn mạnh sự tiếp nối của dòng tộc. Có những bức khắc họa cảnh giã gạo, thổi khèn, uống rượu cần, săn thú... khiến không gian nhà mồ như một bức tranh thu nhỏ về đời sống nơi đại ngàn. Thêm vào đó, tượng chim, voi, trâu, chó, hổ... vừa gần gũi đời thường, vừa chất chứa ý nghĩa linh thiêng: chú chó trung thành như bạn đồng hành, chim tung cánh đưa linh hồn bay qua núi, voi hiên ngang tượng trưng cho sức mạnh cộng đồng.

Nghệ thuật tạo hình tượng nhà mồ mang vẻ đẹp mộc mạc mà phóng khoáng. Nghệ nhân cầm dao, cầm rìu, gọt tạc trực tiếp trên khúc gỗ, không cần thước tấc chuẩn mực. Những vết chạm khắc thô ráp, không trau chuốt, nhưng chính sự thô ráp ấy lại chứa đựng sức lay động kỳ lạ. Có khi chỉ một khối gỗ với đôi bàn tay che mặt đã diễn tả trọn vẹn nỗi đau, có khi vài đường khắc sơ sài cũng đủ hiện lên nụ cười mộc mạc. Ông Êa Yôn, dân tộc Ê Đê, trú tại buôn Weo A, xã Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk cho biết, trong khi các dân tộc Gia Rai và Ba Na xem tượng nhà mồ là linh vật hiển nhiên phải có khi làm lễ bỏ mả, thì tượng nhà mồ người Ê Đê lại thể hiện sự phúc thọ, giàu sang, quyền quý của người đã khuất và gia đình làm lễ bỏ mả với cộng đồng. Bởi vậy, không phải ngôi mộ người Ê Đê nào khi làm lễ bỏ mả cũng được tạc, dựng tượng xung quanh. Người Ê Đê xưa kia sau khi trông nom mồ mả người chết 3-4 năm, có khi tới 5 năm mới làm lễ bỏ mả. Khi làm lễ bỏ mả, người chết dưới 60 tuổi thì chưa được tạc tượng nhà mồ (làm gơng kút, gơng klao). Những người già, giàu có, người có uy tín thì mới được tạc tượng nhà mồ khi làm lễ bỏ mả. Tổ chức lễ bỏ mả phải có trâu, bò, heo, gà... để cúng Yàng, thực hiện các nghi thức bỏ mả.

Dẫu ngày nay, nhiều khu nhà mồ không còn nguyên vẹn bởi sự biến đổi của đời sống và tín ngưỡng, nhưng tượng nhà mồ vẫn tồn tại như ký ức sống động của văn hóa Tây Nguyên. Nhiều bảo tàng đã sưu tầm, trưng bày tượng nhà mồ để minh chứng cho sức sáng tạo phi thường của cư dân bản địa. Một số nghệ nhân còn đưa nghệ thuật này vào đời sống đương đại, tạo ra những bức tượng trang trí hay nghệ thuật, song vẫn giữ nguyên hồn cốt của nhà mồ. Ông A Đoan, nghệ nhân tạc tượng có tiếng ở xã Đắk Hà, tỉnh Quảng Ngãi chia sẻ: “Tạc tượng nhà mồ bây giờ không chỉ để tiễn người chết, mà còn để người sống nhớ văn hóa của mình. Nếu không làm, mai này con cháu quên hết”.

Tượng nhà mồ Tây Nguyên không chỉ là những khối gỗ lặng lẽ giữa rừng già, mà là tiếng nói của linh hồn, là nhịp đập của một nền văn hóa đã sống cùng đất trời qua bao thế hệ. Mỗi đường dao chạm khắc, mỗi hình tượng cười khóc, yêu thương, đều như một khúc sử thi bằng gỗ, kể lại câu chuyện về sự sống, về cái chết và về mối dây liên kết bất diệt giữa con người với cộng đồng, với vũ trụ.

Việt Bắc

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/tuong-nha-mo-linh-hon-van-hoa-cac-dan-toc-tay-nguyen-post494307.html
Zalo