'Túi ba gang' không chỉ đựng... vàng!

Kính tặng Cô giáo - TS Nguyễn Thị NhànTrong 'Tam quốc diễn nghĩa' (La Quán Trung) có chi tiết chiếc túi gấm mê dụ người đọc. Trước khi đưa Lưu Bị sang Đông Ngô, Gia Cát Lượng đưa 3 túi gấm cho Triệu Vân và nói trong này đựng 3 cẩm nang cho 3 thời điểm khác nhau.

Khi trở về, quân Tôn Quyền truy đuổi sát bờ sông. Thậm nguy cấp. Lưu Bị vô cùng hoảng sợ. Triệu Vân trấn an: “Quân sư có ba diệu kế ở trong túi gấm này. Hai lần mở trước đều đã trúng cả. Nay còn điều thứ ba, dặn lúc nào nguy cấp lắm mới mở…”. Quả nhiên cái kế thứ ba tuyệt diệu đã cứu mạng sống cả đoàn người.

Một mô hình túi gấm cổ Trung Hoa dùng ở ngày hôm nay.

Một mô hình túi gấm cổ Trung Hoa dùng ở ngày hôm nay.

Còn nhiều chuyện hấp dẫn khác. Trước khi chết, Gia Cát để lại một túi gấm, dặn Dương Nghi khi nào Ngụy Diên có ý làm phản hãy mở túi gấm ra… Không chỉ với Khổng Minh, các đại tướng quân Chu Du, Quách Gia, Phượng Sồ, Lục Tốn, Tư Mã Ý... đều ít nhiều gắn liền với “Túi nang mưu kế” (Diệu kế cẩm nang).

Một nét chung giữa các túi này là: chỉ được mở khi gặp khó. Nếu không sẽ rước họa vào thân và bị xử tội nặng theo quân pháp. Từ đó ngôn ngữ phương Đông có từ “cẩm nang” (“cẩm” là vải gấm, “nang” là cái túi) nói về các phương án, mưu kế quan trọng, có tính bí mật, làm theo sẽ thành công.

Trong “Tây du ký” (Ngô Thừa Ân) có hình tượng cái túi “Nhân chủng” - một pháp bảo của Phật Di Lặc, bị Hoàng Mi lão quái đánh cắp mang xuống hạ giới nghịch ngợm. Thầy trò Đường Tăng dễ dàng bị yêu quái hút vào trong túi. Cuối cùng Phật phải ra tay thu phục yêu ma. Cái túi tuy bé nhỏ nhưng có sức mạnh “hút” vào nó tất cả, kể cả các bậc “thần thông đại thánh”…

Là một cổ mẫu với ý nghĩa ban đầu chỉ “phép màu” giúp người lúc khó khăn nhất, có ở hầu hết các nước phương Đông. Trong văn hóa Nhật Bản có hình tượng thần Hotei (Bố Đại), như là hiện thân của Phật Di Lặc, luôn mang theo bên mình chiếc túi to, đựng tiền, vật dụng. Vị thần này luôn cười nên còn gọi là “Phật Cười”, thường mở túi lấy tiền cho người nghèo, trở thành biểu tượng của tài sản, hòa bình, hạnh phúc, may mắn, trường thọ.

Cổ tích Việt Nam có truyện “Cây khế” châm biếm người anh tham lam nên gặp họa; người em thật thà, hiền lành nên gặp phúc. Tiêu biểu cho thi pháp cổ tích, các tuyến nhân vật phân cực triệt để, kết thúc có hậu. Chim đại bàng đến ăn khế, người em than đã nghèo chim lại đến phá. Chim vừa ăn vừa đáp: “Ăn một quả, trả cục vàng/ May túi ba gang, mang theo mà đựng”.

Có một chủ đề phụ ở đây: “ăn” (hưởng thụ thành quả) của người khác, thì phải biết trả gấp nhiều lần, nhất là với người nghèo. Đó cũng là một đạo lý nhớ ơn, biết ơn để răn dạy người đời. Hiểu vậy, ý nghĩa truyện mang tính phổ quát cho mọi đời, mọi thời, cho cả hôm nay: khi mà kẻ tham nhũng “ăn của dân không từ một thứ gì”, nhưng không biết đạo lý bằng loài vật (con chim “ăn một quả” khế còn “trả cục vàng”). Thế mà...

Chùm truyện về Nguyễn Minh Không cũng có túi “ba gang”. Tương truyền Nguyễn Minh Không là ông tổ nghề đúc đồng. Huyền sử kể ông là người góp phần xây dựng, kiến tạo nên “Tứ đại khí” Đại Việt nổi tiếng thời Lý là Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Phật Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh. Nghe tiếng tăm về đại danh y, vua Trung Quốc mời ông sang chữa bệnh cho Hoàng Thái tử.

Thái tử khỏi bệnh, nhà vua cả mừng bèn thưởng cho nhiều vàng, bạc, châu báu. Nguyễn Minh Không khẳng khái nói Đại Việt đã có nhiều bạc vàng, nếu nhà vua cho, chỉ xin một ít đồng đựng vào túi ba gang. Thấy chiếc túi bé nhỏ, vua liền đồng ý ngay và cho phép ông vào kho tự lấy. Có phép thần thông, cả mười kho đồng mà vẫn chưa đủ đầy cái túi ba gang ấy... Vấn đề đặt ra: Tại sao là túi “ba gang”?

Con số “3” là số thiêng trong triết học phương Đông. Gắn liền với thuyết “Tam tài” hình thành từ thời cổ đại Trung Hoa đề cao mối quan hệ hài hòa giữa trời - người - đất. Trong phong thủy, số 3 tượng trưng cho sự vững chắc, bền vững. Thành ngữ Việt có câu: “Vững như kiềng ba chân”. Số 3 còn đại diện cho sự thịnh vượng tài lộc. Trong truyền thuyết tam giới, số 3 chỉ sự hài hòa của vạn vật, biểu thị thái độ ôn nhu, điềm tĩnh.

Trong kiến trúc đình chùa Việt, số 3 thường biểu trưng cho “Tam bảo” (Phật, Pháp, Tăng) hoặc thể hiện sự kết nối với “Tam thế Phật” (Quá khứ, Hiện tại, Vị lai). Bố cục mặt bằng chùa Việt thường hình chữ “Tam” mở rộng, thoáng đãng, mang ý nghĩa kết nối với Nhà Phật. Ứng xử của người Việt hình thành và phát triển văn hóa thiên về số lẻ (3): cổng tam quan, nhà ba gian, gian giữa nhà thờ bộ tam đa (tượng Phúc, Lộc, Thọ), dưới bếp có ba hòn đá/đất tức ba ông “đầu rau”. Cơ bản hơn, số “3” để chỉ “giới hạn”: “Cơm ba bát, áo ba manh”, “Quá tam ba bận”, “Chẳng ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời”, “Cờ ba cuộc, thuốc ba thang”, “Gái giống cha giàu ba họ, trai giống mẹ khó ba đời”, “Ba keo mèo mở mắt” (trong đấu vật, ba keo rõ thắng thua)… Số 3 được coi là “vừa phải”, không to không nhỏ. Người em mang túi “3 gang” thì “vừa phải”. Người anh mang túi “12 gang” thì thật “quá ngưỡng”.

Túi trầu người Dao Tiền.

Túi trầu người Dao Tiền.

Từ góc độ đời sống, gần như chắc rằng, từ khi vải vóc ra đời thì con người càng quen thuộc với cái túi vải - một vật dụng thân thuộc, với những chuyến đi xa, càng cần thiết. Vì để đựng các đồ vật phục vụ tối thiểu cho sinh hoạt. Người Việt có thành ngữ “Nâng khăn sửa túi” chỉ vai trò, bổn phận người vợ (xưa) với chồng.

Ngày xưa đàn ông để tóc dài, phải dùng khăn (để buộc/chụp) và lược (chải). Người vợ đảm đang phải lo cái túi đựng khăn lược cho chồng, nhất là khi chồng đi xa. Túi to được gọi lại “tay nải”. Chữ “nải” có thể là biến âm của “nang” (chữ Hán, nghĩa cái túi). Tay nải có thể buộc chéo ngực nhưng thường đeo vai, khi đi người (đàn ông) một tay giữ quai túi (quàng vai) cho thăng bằng. Trong các văn bản cổ, khi tả sĩ tử lên kinh ứng thi thường có “tay nải”, trong đó đựng cả một “thế giới”, hẳn nhiên có “khăn”, “lược” do vợ yêu “sửa soạn”…

Ngày xưa, đi bộ là phương thức di chuyển chủ yếu. Dùng cho chuyến đi xa, thông dụng, thuận tiện cho di chuyển là tay nải “3 gang”. Từ ghép “cướp giật” có từ xa xưa chỉ hành động tiêu cực “giật” (tay nải) của khách bộ hành - một dạng cướp. Lại có nhà thơ nào “lên đường”, hẳn phải có “bầu rượu túi thơ”. Trong văn học trung đại, ít nhất có hai lần hình tượng này xuất hiện, với “Thảnh thơi bầu rượu túi thơ/ Ngón cầm khiển hứng, nước cờ giải mê” (Nguyễn Huy Hổ - "Mai Đình mộng ký") và “Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo/ Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu” (Nguyễn Công Trứ - "Chí làm trai").

Trong thi ca, hội họa cổ Trung Hoa, khi đặc tả hình dáng các thi nhân, thường xuất hiện cái túi bên người. Đó là “túi thơ”. Vì ngày xưa viết vào thẻ tre, viết xong cuộn lại cho vào túi đeo. Khi có giấy, vẫn phải có túi, để đựng giấy, nghiên mực, khăn, lược… Túi này cũng khoảng “3 gang”. Vì đựng cả “một thế giới” nên người xưa còn gọi là “túi càn khôn” tức “túi trời đất”.

Có lẽ chịu ảnh hưởng từ “cổ mẫu” (cẩm nang) từ xa xưa ánh xạ về, cộng với sự thiết thực trong cuộc sống đương đại, mà ý nghĩa chuyển vào danh từ “túi khôn” (chứa đựng sự khôn ngoan). Thế là trong văn chương xuất hiện ẩn dụ, đại loại kiểu: Nguyễn Bỉnh Khiêm/Lê Quý Đôn là “túi khôn” của thời đại”, ý ca ngợi các ông thu hết tài năng, tinh hoa của người đời. Theo ý này, cho đến ngày nay vẫn có những nhận định, kiểu như: văn học dân gian là “túi khôn” của nhân loại.

Tóm lại, cái túi “3 gang” là một hình tượng quen thuộc gắn liền với cuộc sống thông thường. Vượt biển là hành trình nguy hiểm (Nhất thủy nhì hỏa…), người anh lại mang túi “12 gang” thì trái logich cuộc sống, tất yếu chịu hậu quả.

Theo nhiều ghi chép, túi xách nguyên thủy làm bằng vỏ cây, da thú, khi có vải vóc, chuyển sang túi vải. Những gia đình giàu có, những người sang trọng thường dùng túi vải lụa bền và đẹp. Túi xách ngày nay là sự phát triển từ túi vải cổ xưa. Hiện ở ta đang có “mốt” đeo túi vải (với đàn ông có tuổi), chính là sự “biến tấu” từ cái tay nải ngày trước. Túi xách thời trang của phụ nữ hiện đại đa dạng hơn rất nhiều, chất liệu bằng da, vải, nhựa… đắt tiền, có khi giá lên tới hàng chục triệu VNĐ. Cũng chứa cả “một thế giới”, son phấn, nước hoa, điện thoại…

Thời hội nhập, trên sách báo nước ngoài viết về Việt Nam, người châu Âu ấn tượng hình ảnh túi đựng trầu của người Dao Tiền. Túi làm bằng vải chàm, có đáy rộng, được trang trí nhiều bạc trắng giá trị bên ngoài, có những họa tiết tinh tế, mời gọi.

Nguyễn Thanh Tú

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/tui-ba-gang-khong-chi-dung-vang--i781126/
Zalo