Từ thực tiễn tổng kết 40 năm Đổi mới và yêu cầu phát triển đất nước giai đoạn mới

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện tầm cao trí tuệ của toàn Đảng, niềm tin và khát vọng của cả dân tộc, phản ánh những quy luật khách quan và xu thế vận động mới của thực tiễn; lấy thực tiễn là thước đo kiểm nghiệm chân lý, nắm bắt xu thế vận động của thời đại để tạo động lực phát triển mới.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Trọng Lâm, Giám đốc-Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. (Ảnh: TUỆ LÂM)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Trọng Lâm, Giám đốc-Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. (Ảnh: TUỆ LÂM)

Điểm nổi bật của dự thảo lần này là nhấn mạnh sự đổi mới toàn diện, đồng bộ, sâu sắc và hiệu quả, thể hiện bước phát triển trong cách tiếp cận, từ đổi mới bộ phận sang đổi mới tổng thể, từ đổi mới cơ chế sang đổi mới mô hình phát triển. Sự nhất quán đó phản ánh tư duy lãnh đạo chính trị hiện đại: phát triển phải toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và quốc phòng-an ninh, trong đó con người vừa là trung tâm, vừa là chủ thể và động lực của sự phát triển.

Trước đó, với vai trò là cơ quan xuất bản lý luận, chính trị của Đảng, Nhà nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã được phân công biên tập, xuất bản dự thảo để phát hành rộng rãi, làm tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp xã, cấp tỉnh và tương đương.

Từ thực tiễn triển khai công tác nghiên cứu, biên tập, xuất bản và tuyên truyền, quán triệt sâu rộng văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội Đảng, có thể thấy rõ, mỗi kỳ đại hội đều là một bước tiến mới trong tư duy lý luận, phương pháp lãnh đạo và năng lực hoạch định chiến lược. Dự thảo tiếp tục kế thừa tinh thần đổi mới, song cần tiếp tục hoàn thiện cả về cấu trúc, ngôn ngữ và luận chứng để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới - giai đoạn định hướng phát triển của kinh tế xanh, chuyển đổi số, văn hóa chính trị số và hội nhập toàn diện.

Để Văn kiện Đại hội XIV trở nên khoa học, chuẩn mực và có tính thuyết phục cao hơn, cần tiếp tục hoàn thiện một số nội dung sau:

1. Làm rõ hơn một số nội dung, cơ sở lý luận và thực tiễn trong dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam.

Một trong những vấn đề cần được nhấn mạnh rõ hơn là nâng cao năng suất lao động và chuyển đổi mô hình tăng trưởng - yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế; tuy nhiên, mô hình tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa trên mở rộng vốn, lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên, trong khi năng suất lao động, đổi mới sáng tạo và năng lực tự chủ kinh tế còn hạn chế.

Để phản ánh đúng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới, Báo cáo cần bổ sung và làm sâu sắc hơn nội dung về chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, trong đó nhấn mạnh ba trụ cột: (i) Nâng cao năng suất tổng hợp (TFP) và hiệu quả sử dụng nguồn lực; (ii) Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn; (iii) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với chuyển đổi cơ cấu ngành, nghề và việc làm bền vững.

Báo cáo cũng cần chỉ rõ nguyên nhân cốt lõi của năng suất lao động thấp, như hạn chế về thể chế, cơ cấu kinh tế, trình độ công nghệ, kỹ năng lao động và liên kết giữa các khu vực kinh tế. Việc xác định đúng nguyên nhân là cơ sở để hoạch định giải pháp, bảo đảm tính khả thi, thay vì chỉ dừng ở mức tổng kết.

Cùng với đó, Báo cáo nên đề xuất lộ trình và chỉ tiêu định lượng rõ ràng cho giai đoạn 2026-2030, như tốc độ gia tăng năng suất tổng hợp (TFP), tỷ trọng kinh tế số trong GDP, tỷ lệ lao động qua đào tạo và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Tiếp tục nhấn mạnh việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với phát triển con người, văn hóa, xã hội và môi trường, phù hợp mục tiêu phát triển bền vững và cam kết phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050.

Nhấn mạnh yêu cầu đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội khi nói về đổi mới hệ thống chính trị.

Nội dung “dự báo tình hình, đề xuất quan điểm và định hướng” cần minh định cơ sở để đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số. Ngoài yếu tố chính trị-xã hội, cần làm rõ các trụ cột kinh tế, như năng suất tổng hợp (TFP), đổi mới sáng tạo, chuyển đổi năng lượng và năng lực quản trị quốc gia. Cách lập luận này sẽ đưa Báo cáo từ tầm tổng kết lên tầm hoạch định chiến lược.

Chuẩn hóa thuật ngữ quốc tế và loại bỏ từ ngữ thừa nhằm bảo đảm tính học thuật. Thí dụ, cách viết tắt “FTA” nên thống nhất là “Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới”; các cấu trúc thừa như “vào quá trình” cần được giản lược để diễn đạt chính xác hơn.

2. Cập nhật và chuẩn hóa số liệu trong dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Về kết quả, hạn chế trong 15 năm thi hành Điều lệ Đảng, cần cập nhật số liệu đến sát thời điểm ban hành văn kiện chính thức, vì số liệu hiện tại mới chỉ dừng đến hết năm 2023, chưa phù hợp mục tiêu tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng (2011-2025).

3. Chuẩn hóa ngôn ngữ và cấu trúc trình bày, hoàn thiện một số nội dung Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Các cụm từ “thật sự” và “thực sự” cần được thống nhất để bảo đảm tính nhất quán trong toàn bộ dự thảo các văn kiện. Cụm từ “toàn diện, sâu rộng, hiệu quả” nên sắp xếp từ nào trước, từ nào sau, có từ “và” hay không?. Nghiên cứu, bổ sung cụm từ “đồng bộ” theo quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm trong bài viết: “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”.

Các phương châm điều hành như “Địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” cần được đặt trong ngoặc kép, in nghiêng và trình bày nhất quán. Điều này vừa giúp khẳng định giá trị của phương châm điều hành, lãnh đạo, vừa bảo đảm tính thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa lý luận và thực tiễn.

Cách sử dụng dấu câu trong các chuỗi liệt kê cần được rà soát và thống nhất. Việc thay dấu “,” bằng dấu “;” trong các nội dung có liệt kê nhiều thành tố (thí dụ: “công tác kiểm tra, giám sát; tuyên giáo, dân vận; cải cách hành chính; đổi mới phong cách, lề lối làm việc…”) vừa giúp tách bạch ý, vừa nâng cao khả năng tiếp nhận thông tin. Đây không chỉ là kỹ thuật biên tập, mà còn là yếu tố góp phần làm cho ngôn ngữ chính trị trở nên mạch lạc, chuẩn hóa và trang trọng.

Một số chỉ tiêu như GDP tăng hơn 10%/năm, GDP bình quân đầu người đạt 8.500USD, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,75 và tỷ trọng lao động nông nghiệp dưới 20% cần được làm rõ hơn về cơ sở khoa học và thực tiễn. Báo cáo cần đề cập và phân tích trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bất ổn, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng và Việt Nam chịu sự tác động mạnh mẽ từ các rào cản thuế quan mới của Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Thực tế cho thấy, mục tiêu tăng trưởng 10% chỉ có thể đạt được khi hội tụ đồng thời ba điều kiện: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, đột phá về thể chế và hạ tầng số, đồng thời cải thiện mạnh mẽ chất lượng nguồn nhân lực.

4. Một số kiến nghị

Một là, tiếp tục hoàn thiện nội dung dự thảo các văn kiện trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận. Mọi chủ trương, chính sách phải được kiểm nghiệm qua thực tiễn, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân và qua kết quả quản trị quốc gia.

Hai là, chuẩn hóa ngôn ngữ, văn phong của văn kiện chính trị theo hướng ngắn gọn, chuẩn xác, thuyết phục, mang tính định hướng cao. Ngôn ngữ của văn kiện không chỉ giúp truyền tải thông tin, mà còn góp phần kiến tạo niềm tin, dẫn dắt hành động và định hình tư duy xã hội.

Ba là, bổ sung luận cứ và dữ liệu thực chứng trong các mục tiêu phát triển, nhất là ở những chỉ tiêu có tính đột phá, như năng suất lao động, tỷ trọng kinh tế số, chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo. Việc dựa trên bằng chứng khoa học sẽ làm tăng tính khả thi và sức thuyết phục của các định hướng chiến lược.

Bốn là, làm rõ hơn tầm nhìn đến năm 2045 không chỉ ở khía cạnh “nước phát triển, thu nhập cao”, mà thể hiện cả chất lượng phát triển văn hóa, con người và hệ giá trị quốc gia-dân tộc-thời đại. Đây là chiều sâu lý luận, cơ sở để phát triển bền vững.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ VŨ TRỌNG LÂM Giám đốc-Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/tu-thuc-tien-tong-ket-40-nam-doi-moi-va-yeu-cau-phat-trien-dat-nuoc-giai-doan-moi-post923424.html