Từ sự thật chiến tranh đến văn chương, nghệ thuật
Phản ánh hiện thực chân thật nhất luôn là nhu cầu của nhà văn và cũng là đòi hỏi của cuộc sống đối với tác giả. Bởi nhà văn có quyền nói lên sự thật và dám dùng ngòi bút viết nên sự thật. Nhà văn F. Kafka nói rằng: 'Văn học luôn là một cuộc thám hiểm đến sự thật'.
1. Sự thật cuộc sống rất đa dạng, không phải lúc nào cũng rạch ròi, mà lẫn vào nhau, trộn vào các trạng thái ngổn ngang, bề bộn của đời sống hoặc mù mờ, chấp chới giữa lằn ranh khó phân định: sáng - tối, đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác, cao cả - thấp hèn, hạnh phúc - bất hạnh, công bằng - bất công, tiến bộ - lạc hậu, phát triển - phản động…, đôi khi không dễ cảm nhận.
Nhà văn đồng thời là nhà tư tưởng không chỉ mang phẩm chất sáng tạo mà còn phát hiện và dự báo. Sự thật có tên gọi và có bộ mặt thật, nhà văn không khó để nhận ra, chỉ có điều tác giả có “chỉ mặt đặt tên” hay không mà thôi; hoặc nhận ra nhưng không dám trung thực với lương tâm sáng tạo, không dám chân thành với hiện thực để sáng tạo nghệ thuật mà lờ đi, đánh bài “tẩu vi thượng sách” hoặc né tránh.

Bộ phim “Mưa đỏ” chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Chu Lai cũng chỉ phản ánh được một phần rất nhỏ của chiến tranh.
Tuy nhiên, viết về sự thật nào, viết ra có lợi cho ai, đồng thời phản ánh và suy tư về sự thật nhanh hay chậm lại do sự đòi hỏi cụ thể của hoàn cảnh lịch sử. Có những sự thật cần phải bóc trần ngay trên trang sách và đòi hỏi tác giả phải cất luôn tiếng kêu công lý. Khi ấy, tác giả không chỉ cần có bản lĩnh, mà còn cần tài năng, đặc biệt cần những thiên tài không chờ thời gian tích lũy kinh nghiệm và độ chín.
Sự thật đời sống thì có nhiều, có sự thật cần có độ lùi thời gian nhất định để ngẫm nghĩ về nó, để nhận ra bản chất sự thật hoàn hảo.
Có giai thoại kể rằng: Minh Thành Tổ đọc tiểu thuyết “Thủy Hử” xong bèn nổi giận cho rằng Thi Nại Am gieo mầm phản loạn. Vua Minh ra lệnh bắt giam và truyền rằng ông phải viết tiếp đoạn kết để Lương Sơn Bạc bị triều đình trấn áp, chứ không thể nghênh ngang tụ nghĩa một chốn dung thân “bến nước”, rồi sẽ tha. Một thời gian sau, Thi Nại Am hoàn thành, trình lên nhà vua đọc, hài lòng và ông được tự do. Chỉ là giai thoại sự thật bị thay đổi, bạn đọc càng không thỏa mãn với cái với kết bằng giấc mơ của Lưu Tuấn Nghĩa, và Tống Giang chiêu an, số phận Lương Sơn Bạc tan tác, chết chóc.
Ở Việt Nam cũng có giai thoại vua Tự Đức đọc “Truyện Kiều” đến câu thơ Nguyễn Du tả Từ Hải: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, vua tức giận, quát: “Giá như Nguyễn Du còn sống thì phải nọc ra đánh 20 trượng vì tội coi trời bằng vung”. Viết về câu chuyện nước Tầu, anh hùng khởi nghĩa nông dân Từ Hải của nước Tầu, sự thật ngoại biên mà còn không được chấp nhận. Giai thoại có thể thật có thể hư, hư nhưng cũng là điều dự báo về sự thật có thể xảy ra.
2. Ở nước ta, thời chiến tranh chống Mỹ, con người công dân, con người tập thể dường như lấn át con người cá nhân. Xã hội thời chiến lúc đó rất cần lý tưởng chung và hành động tập thể. Những ưu tư, tính toán, chọn lựa cá nhân buộc phải gác lại trước số phận sống còn của dân tộc; cả nước lên đường, cả nước hành quân cho ngày chiến thắng. Tuy nhiên, dù là con người lý tưởng thì đôi khi con người cá nhân vẫn nổi lên, đôi khi cái tôi vẫn trỗi dậy khi bên cạnh cái ta.
Thử hỏi, để đi đến cái đích thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh chống xâm lược, có nên chiếu bộ phim với những cảnh bộ đội bị thương, chết chóc thảm khốc cho những người lính ngày mai nhập ngũ, ngày mai ra trận không? Trong thực tế đời sống muôn hình vạn trạng, có những cuộc chia ly trước ngày ra trận, tôi đồ rằng cũng không thiếu người vợ, người mẹ, người yêu khóc hết nước mắt, và nhiều người không muốn người thân vào nơi mất mát, hy sinh, thậm chí có cô gái ngăn cản người yêu nhập ngũ.

Chọn lựa sự thật lên tiếng là một yêu cầu khác quan của hoàn cảnh xã hội. Vì vậy, các anh hùng, dũng sỹ đi nói chuyện ở các cơ quan, đoàn thể, trường học sẽ nói về chiến thắng và lòng căm thù giặc, cùng lắm là nói đến tinh thần vượt qua gian khổ, ác liệt, chứ mấy ai dám kể về những mất mát, hy sinh, và càng không dám kể, càng không nên kể về những thất bại… trong khi cả nước đang hừng hực khí thế lên đường đánh giặc ngoại xâm và chiến trường đang cần gấp bổ sung quân...
Cho nên nhà văn trước hoàn cảnh lịch sử và bổn phận công dân trong các thời điểm nhất định để cho sự thật lên tiếng thì sự đắn đo và tự biên tập của tác giả cũng cần thiết. Vả lại, sáng tạo nghệ thuật nhiếp ảnh, báo chí có thể tác chiến nhanh, kịp thời, nhưng với đặc trưng thể loại khác, nhất là tiểu thuyết lại cần độ lùi thời gian nhất định, có muốn công bố ngay sự thật thì cũng “lực bất tòng tâm”.
Nhưng hiện thực tạm gác lại và sự thật chưa lên tiếng không có nghĩa là để cho nó lãng quên, cũng không phải là che giấu. Sự thật sẽ được phản ánh khi thời gian đã có độ lùi, và suy tư nhà văn về nó đã chín muồi. Dù từng ngày từng giờ sống trong vùng “Đất trắng”, Nguyễn Trọng Oánh cùng đồng đội chịu gian khổ, hy sinh, mất mát đau thương thê thảm, nhiều cán bộ, chiến sỹ không chịu đựng nổi ác liệt đã dao động, chiêu hồi, phản bội, nhưng chiến tranh kết thúc 5 năm thì ông mới có đủ độ lùi cần thiết để nhìn lại cuộc chiến Mậu Thân 1968 để nghĩ sâu, để bao quát, dám viết về Tám Hàn, một cán bộ cao cấp chiêu hồi, viết về sự thật trần trụi, khốc liệt của chiến tranh với mọi sự phức tạp, ngổn ngang, bề bộn, có sự phi thường, cao cả và có cả sự tầm thường, thấp hèn của con người.
Những ngày ở Tây Nguyên bom đạn ác liệt, đói, sốt, nhà văn Bảo Ninh và đồng đội của ông phải nghĩ cách để tồn tại, để sống, chiến đấu, ông đâu còn thời gian để tưởng tượng những ngày sau chiến tranh trở về lại mang một “Nỗi buồn chiến tranh” không thể chữa lành cho ông, và cũng phải chờ hơn 10 năm thời hậu chiến thì nhân vật Kiên mới bước vào tiểu thuyết để rồi từ trang sách lại bước ra ngoài đời với một lứa bạn đọc mới đón nhận.
81 ngày đêm Thành Cổ - Quảng Trị diễn ra khốc liệt, mỗi ngày Quân Giải phóng bị tiêu hao một đại đội, phía bên kia cũng mất mát, chết chóc thê thảm. Dòng Thạch Hãn thành sông máu, ngoài thành ngổn ngang xác lính trận hai bên, cả một vùng xơ xác, tan hoang…, tranh ảnh, báo chí không còn từ nào để miêu tả về sự khốc liệt tang thương ấy. Tiểu thuyết “Mưa đỏ” của Chu Lai thì phải hơn 40 năm sau mới xuất hiện trên văn đàn với cảm hứng chiến trận, mất mát đau thương nhưng còn là thông điệp hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc.
Tôi cứ nghĩ nếu nhà văn Chu Lai viết tiểu thuyết này chỉ sau ngày đất nước thống nhất vài năm, thì ông có dám viết về sự thật trần trụi của chiến tranh thế không? Hình ảnh những người lính phía bên kia đậm nét, rất chiến trận và cũng rất con người có đi vào “Mưa đỏ”? Hai người mẹ của hai người lính thuộc hai chiến tuyến có gặp nhau ở nghĩa trang trong trang cuối tiểu thuyết không? Sự thật chỉ xuất hiện khi nhà văn đủ bản lĩnh, sáng tạo dồi dào và hoàn cảnh lịch sử còn không trì hoãn nữa.
3.Lại có chuyện sự thật của loại hình nghệ thuật này lấy cảm hứng từ sự thật của loại hình kia, mà sân khấu và điện ảnh chuyển thể từ văn học là một ví dụ. Trong trường hợp này thì sự thật của tác phẩm ra đời sau được chắt lọc, được lựa chọn từ tác phẩm phát hành trước và có quyền sáng tạo hiện thực khác trên cái nền tảng sự thật trước. Đạo diễn phim truyện “Bến không chồng” khá trung thành với tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Dương Hướng, nhưng cũng có sự lựa chọn khác, chẳng hạn không gian trong phim là làng quê sông nước với nghề nông lại thêm nghề phụ làm vại sành, chum, nồi đất nung còn trong tiểu thuyết là làng quê miền biển.
Cái “Bến không chồng” của Dương Hướng có thực ngoài đời với hai cây quéo đã đi vào tác phẩm, nhưng trong phim là cái bến có cây gạo nở hoa đỏ rực. Sự thật mụ Hơn trong tiểu thuyết lẳng lơ, mồi chài giai, vô duyên bao nhiêu thì trong phim lại biến thành con người khác đằm thắm tinh tế, và con giai duy nhất của mụ đi bộ đội trở về, làm ăn phát đạt cưới vợ, thành “tư sản”, thì trong phim đạo diễn cho mụ trở thành mẹ liệt sĩ…v.v.
Bộ phim “Mưa đỏ” đang nổi đình nổi đám như một hiện tượng của phim chiến tranh về đề tài cách mạng chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Chu Lai, do ông viết kịch bản. Đọc tiểu thuyết và xem phim thì không biết cái nào hay hơn cái nào, nhưng chắc chắn một điều: Không thể đưa hết sự thật trong tiểu thuyết lên màn ảnh chỉ trong một bộ phim. Điều này thì kịch bản đã phải chọn lựa trong tiểu thuyết sự thật nào hồn cốt nhất, ám ảnh nhất, đến đạo diễn lại phải chọn một lần nữa và sáng tạo lần thứ hai.
Đạo diễn Đặng Thái Huyền nói rằng: “Khi mọi người quá ấn tượng về một tác phẩm văn học nổi tiếng thì sẽ khó tiếp nhận một cách thể hiện khác. Đây chính là áp lực rất lớn cho những đạo diễn trẻ. Chính vì vậy để vừa lột tả được giá trị của tác phẩm văn học nhưng vẫn mang đến cảm nhận mới, chạm được đến trái tim của khán giả là câu hỏi ê kíp làm phim vô cùng trăn trở”.
Thành công của phim truyện “Mưa đỏ” từ “thiên thời địa lợi nhân hòa”, từ ý tưởng, từ kịch bản, từ nhân vật… nhưng có lẽ sự thật chiến tranh với những hình ảnh vượt sông trong tối sáng, lũ lụt, thành cổ tan hoang, bom đạn cày xới, những cái chết của người lính phía bên này và cả phía bên kia, rồi đại cảnh chiến trận là những ám ảnh gây sang chấn cảm xúc và lấy nước mắt bạn đọc. Nhưng ngay cả sự thành công đến mức không ngờ thì sự thật của tiểu thuyết và phim “Mưa đỏ” cũng chỉ phản ánh được một phần rất nhỏ của chiến tranh.